Chào mừng bạn đến với website Bốn Niệm Xứ

MAI CỐT CÁCH, TUYẾT TINH THẦN...

MAI CỐT CÁCH, TUYẾT TINH THẦN...
Hai bài viết có tựa "Nét xuân sơn" là đôi lông mày của Thúy Kiều, và Truyện Kiều, những sai biệt chập chùng, của hai ngày 15-16 tháng 8 vừa rồi chúng tôi có chỉnh lại những từ, chữ sai lạc của các câu sai biệt, vô nghĩa do bị chỉnh sửa, do bị tam sao thất bổn trở lại đúng với nguyên bản gốc của Kiều, của tác giả. Những ai vào đọc chắc cũng đã thấy những đúng sai, những có lý, vô lý của những câu ấy. Không riêng gì hai bài viết vừa rồi ấy, mà từ 10 năm nay chúng tôi thỉnh thoảng vẫn hay có những bài viết giải Kiều, chỉ ra những khuất lấp (câu chữ) của nó, của sự bế tắc văn học, của các nhà tri thức Trung Hoa, Việt Nam khi mãi cho truyện Kiều là của người Tàu, do tác giả Thanh Tâm Tài Nhân sáng tác, xưa Nguyễn Du bằng cách nào đó đã săn nhặt, tìm được, mang từ Tàu về dịch từ bản văn xuôi chữ Hán, thể chương hồi ra 3254 câu lục bát chữ Nôm. Đó là kết luận, khẳng định bất di dịch, như đinh đóng cột của giới tri thức, văn học hai nước Việt Nam, Trung Hoa về hai văn bản Kiều, mà người ta cho một là của Tàu, một là của Việt Nam. Chỉ từ khi chúng tôi đưa ra những bài giải Kiều, có những bài chỉnh sửa, phục hồi câu chữ, đồng thời, chúng tôi xác định truyện Kiều là bộ sử Tây Sơn, do Nguyễn Du chấp bút, trần thuật, viết lại mối tình lỡ làng, trái ngang, gãy cánh giữa đường của mình với người trong mộng Thúy Kiều Hoàng Thị Thu Mai, sau là Bắc cung Hoàng hậu, vợ thứ ba của vua Quang Trung, do thời cuộc chiến chinh đất nước gây ra. Cũng từ đó người ta mới bắt đầu đâm ra hồ nghi, cảm thấy hết sức bối rối, ngỡ ngàng về những gì mà mình hiểu về Kiều, về những lập luận, kết luận, mặc định của văn học Việt Nam và Trung Hoa về câu chuyện được cho vốn chỉ là tác phẩm hư cấu văn học. Nhưng để chấp nhận những bài viết, những phát hiện của tác giả là đúng, rất có lý thì cũng không ai dám. Bởi nếu như thế thì chẳng khác nào họ lên tiếng chê bai, nhất loạt ra tay vùi dập, xô ngã, lật đổ tất cả những tượng đài tri thức đất nước mà họ từng kính ngưỡng, tôn thờ ấy xuống hết hay sao? Nào Đào Duy Anh, Hoàng Như Mai, Đặng Thai Mai, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Quỳnh, Đào Thái Tôn, Nguyễn Thạch Giang, Vũ Hạnh, vvv... Một trời tri thức Việt. Chưa nói đó còn là giới tri thức, nghiên cứu văn học của đất nước Trung Hoa bên kia, nơi được cho là xuất xứ của câu chuyện. Đó chính là những lý do cơ bản, thiết thực, cụ thể để không một ai dám lên tiếng công nhận (cũng như phủ nhận) những bài viết, những phát hiện của chúng tôi về Kiều cả.

tượng người

Tóm lại. Cái mà người ta không dám lên tiếng phủ nhận những lý luận, nghiên cứu về Kiều của giới tri thức Việt Nam, Trung Hoa qua các thời kỳ xin thưa chính là niềm tin chớ không gì cả. Xin xác định ở đây rằng niềm tin nó có một sức mạnh vô song, không tưởng, không gì cản, phá nổi nó. Một khi nó đã tin, đã đặt trọn tâm hồn, tư tưởng vào gì rồi. Có chết cũng không bao giờ nó từ bỏ, rời xa niềm tin ấy. Cho dù đó là niềm tin rất mù mờ, nhập nhằng, chất đầy sự vô nghĩa trong đó. Cho dù đối tượng khởi niềm tin ấy là những tri thức uyên bác, người có học hàm học vị, được người đời, xã hội hết mực kính ngưỡng, từng được lập trang thờ cúng kính cẩn trên đầu cổ. Cho dù những nơi chốn, những việc này chuyện kia, nơi đặt niềm tin, vốn rất mù mờ, hư hư thực thực, có không nhập nhằng. Thì con người cũng mặc, chả cần biết. Mà con người chỉ cần biết, những gì đã được thiết lập, dựng lên rồi, đã trở thành truyền thống, truyền thuyết rồi thì cái ấy, điều ấy là bất tử. Đơn giản thế thôi.

tượng người
Nguyễn Du ngồi mãi đó dưới trời phong sương tuế nguyệt đợi người chắp nối dòng tâm sự u uẩn, miên man của mình...

Như đã nói, hai bài viết hôm 15-16 tháng 8 vừa rồi chúng tôi đã chỉnh sửa, phục hồi hai câu lục bát tào lao đảo điên đầu cắm xuống đất hai chân chỗng lên trời 25-26 "Làn thu thủy, nét xuân sơn""Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh" vốn là đề tài lý luận, nghiên cứu miệt mài, đúng hơn là nơi đặt niềm tin bất tử của các nhà tri thức, nghiên cứu văn học, nghiên cứu Kiều Việt Nam qua các thời kỳ trở về với nguyên bản gốc của nó là: "𝗠𝗮̀𝘆 𝘀𝗼𝗻𝗴 𝗽𝗵𝗶̉, 𝗺𝗮̆́𝘁 𝘀𝗼𝗻𝗴 𝗹𝗼𝗮𝗻""𝗧𝗿𝗮̆𝗻𝗴 ghen đ𝘂𝗮 𝘀𝗮́𝗻𝗴, đ𝗶𝗲̂̉𝘂 hờn 𝘅𝘂̛𝗼̛́𝗻𝗴 𝘁𝗵𝗮𝗻𝗵". Nếu người đọc chấp nhận đây là sự thật, là những câu chữ gốc của Kiều, của Nguyễn Du khi tả về nhân tướng, nét đẹp đặc biệt của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân vốn là hai chị em song sinh (sinh đôi), là người có thật, là con của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc, quê ở Bắc Giang. Hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân là con của bà Nguyễn Thị Ngọc Huyền, vợ của Việp quận công. Bà Nguyễn Thị Ngọc Huyền có một người em, tên là Nguyễn Thị Ngọc Nga, là vợ của vua Lê Hiển Tông. Đó chính là lý do để bà Nguyễn Thị Ngọc Huyền, cả chị em Thúy Kiều, Thúy Vân, cũng vẫn hay vào chốn cung cấm triều đình thăm chơi mà đoạn đầu truyện Kiều Nguyễn Du Kim Trọng có nói rõ:

 

Tần ngần dạo gót lầu trang, (573)
Một đoàn mừng thọ ngoại 𝘃𝘂̛𝗼̛𝗻𝗴 mới về... (574)

 

"Mừng thọ ngoại 𝘃𝘂̛𝗼̛𝗻𝗴" là lúc mẹ con bà Ngọc Huyền vào triều đình ăn mừng lễ thượng thọ vua Lê Hiển Tông. Lúc này Thúy Kiều ở nhà, băng tường qua gặp Kim Trọng Nguyễn Du tổ chức, bày ra ăn uống và đàn ca, tâm sự, trò chuyện đến khuya mới ra về. Câu ám chỉ bí mật lịch sử "Mừng thọ ngoại 𝘃𝘂̛𝗼̛𝗻𝗴" đã bị sửa thành "mừng thọ ngoại hương", "ngoại hương" nhiều nhà học giả giải thích là quê ngoại. Sai một ly không phải đi một dặm, mà là muôn trùng sông nước, vạn dặm sơn khê... Sự thật bị biến mất hoàn toàn là bởi những câu chữ tam sao thất bổn-cố ý chỉnh sửa ấy.

điện kính thiên
Lối vào điện Kính Thiên xưa kia. Ảnh chụp thời Pháp thuộc.

Trước hai câu 25-26 chỉnh sửa phục hồi, còn có những câu ám chỉ những bí mật lịch sử khác, của hai con người bằng xương bằng thịt, có thật, của người Việt, nước Việt, chớ không phải đó là con người của câu chuyện hư cấu văn học Trung Hoa, do Thanh Tâm Tài Nhân người bên ấy cao hứng sáng tác như niềm tin bất động của giới tri thức, nghiên cứu, phê bình văn học người Việt từng xác nhận. Các câu ấy là đây:

 

Mai cốt cách, tuyết tinh thần, (17)
Mỗi người 𝗺𝗼̂̃𝗶 vẻ mười phân vẹn mười... (18)

cây mai

Câu lục 17 được tác giả Kim Trọng Nguyễn Du sử dụng mục đích viết ra hai chữ Nhâm Thìn 壬辰, là năm sinh của người đẹp Thúy Kiều. Tiếng Hán thì "thần " của ba chữ " tuyết tinh thần 雪精神", cũng đọc là thìn . Đó chỉ là chữ giả tá 假借-vay mượn. Thìn là chi thứ 5 trong 12 chi. Riêng 3 chữ "mai cốt cách 枚骨格" (chữ lấy trong Truyện Kiều, bản Nôm cổ nhất 1866, trang đầu) là chiết tự dùng viết ra chữ Nhâm , cũng là vương , 4 nét. Gọi "mai cốt cách 枚骨格" ấy bởi đây là chữ tượng trưng cho hình dáng mà nghệ thuật chơi cây cảnh, ngày nay gọi bonsai, gọi là dáng "trực quân tử". 

cây mai
Mai dáng trực quân tử.

Vậy "trực quân tử" là gì?

 

"Trực quân tử" là một trong những thế cây cảnh rất được người xưa, người nay yêu thích. Tư thế này thể hiện bản chất, tâm hồn của hạng người quân tử biết tôn trọng lễ nghi, tính tình ngay thẳng, thanh cao vốn thể chất trong sáng như thủy, nhu nhi bất nhược-nhu nhuyến mềm dẻo, không phải nhu nhược, yếu hèn, rất biết đối nhân xử thế. Cây có thế "trực quân tử" là cây có dáng thẳng đứng (trực), cành nhánh ngay thẳng, gọn gàng, đường nét dứt khoát, được phân theo lối chiết chi hoặc tứ diện, tàn nhánh đầy đủ, bốn mặt tả hữu cân đối và hài hòa.

cây cảnh
Cây tùng dáng trực thẳng đứng

Xin nói rõ hơn về ba chữ "mai cốt cách 枚骨格". Không riêng gì cây mai, mà bất cứ giống cây nào, ngoại trừ các loại dây leo thân mềm bò ngang dọc, khi mọc và tăng trưởng, lớn lên đều theo chiều thẳng đứng. Riêng cây mai, thì giới chơi cây cảnh đã tạo dáng cho nó ngay từ khi còn bé với ba vòng bao quanh thân cây, nhìn ngang như ba nét ngang của chữ Nhâm , cũng là Vương . Vương hoặc Nhâm  là vua, ý nói mai là vua của các loài hoa. Chữ Nhâm hoặc Vương theo chữ Giáp cốt văn dụ cho hình ảnh (tự hình) một người (nhân ) đứng dang hai tay hai chân (trên mặt đất-ảnh kèm theo bên dưới), đó là tư thế đứng hiên ngang, sừng sựng giữa trời, gánh vác chuyện đại sự của thiên địa giao phó của người quân tử mà chẳng chút lo lắng, sờn lòng. Cây mai vốn là giống mọc lên thẳng như các loài giống khác, nhưng từ khi được những người chơi cây cảnh chăm sóc, uốn, tạo ra hình ảnh, sắc tướng như thế, thì từ đó mai được xem là vua của các loài hoa bởi tính chất mảnh mai, thanh cao, đẹp đẽ, thanh khiết vốn có của nó. Thành ngữ "mình hạc xương mai" dùng để chỉ cho những người có cốt cách mảnh mai, thanh cao như mai như hạc, lúc nào cũng đứng thẳng, không biết cúi đầu.

chữ hán
Nhâm là nghĩa giải thích của "mai cốt cách". Cổ kim ai là người thấu hiểu tâm sự Nguyễn Du?

Chúng ta đã hiểu ba từ "mai cốt cách 枚骨格" là gì rồi. Ba chữ còn lại câu 17 là "tuyết tinh thần 雪精神". Chữ "tuyết " của "tuyết tinh thần 雪精神" dụ cho màu trắng, cũng là dụ cho nước, tức thủy. Theo nguyên tắc vật lý, tuyết có ra là do thủy bốc hơi lên gặp mây hóa thành mưa rơi xuống thành nước, nước gặp khí hậu lạnh đông lại thành băng, thành tuyết. Thật ra, "tuyết " của "tuyết tinh thần 雪精神" là nghĩa giải thích của chữ bạch (tiếng Hán). Bạch là trắng. Chúng tôi xác định như thế: tuyết-bạch , chính là do căn cứ vào chiết tự tỷ sự 比事 (nói cho dễ hiểu là cặp đôi so sánh) của câu 17 "Mai cốt cách, tuyết tinh thần 枚骨格雪精神" do chính tác giả hai văn bản Kiều Thanh Tâm Tài Nhân Kim Trọng Nguyễn Du sử dụng mục đích ám chỉ họ tên của người trong mộng. Chữ Hoàng . Chúng ta thấy gì chưa? Hoàng ở trên là chữ bạch , bạch là trắng, màu trắng. Dưới là chữ vương , cũng là nhâm . Nói vương cũng như nhâm bởi hình dáng cây mai không phải như chữ viết phải cụ thể, rõ ràng, ngang là ngang, sổ là sổ. Hoàng là vua, hoặc hoàng là người có quan hệ với vua. Quan hệ với vua đó chính là thân phận, vị trí của người đẹp Thúy Kiều Hoàng Thị Thu Mai sau khi rời Bắc Hà, năm Bính Ngọ 1786, theo chồng về đến Phú Xuân, năm Đinh Vị 1787, định cư cho đến ngày ra đi. Năm Kỷ Mùi 1799.

mai tuyết

Nói cây mai được giới chơi cây cảnh, ở đây là tác giả Kiều, uốn tạo thành chữ vương hoặc nhâm thực ra chỉ là suy luận, phỏng đoán, còn trong thực tế thì ngày ấy (cách đây 200 năm) đã từng có việc trồng mai, uốn mai thành chữ vương , chữ nhâm  dùng tượng trưng khí chất người quân tử hay không thì không rõ lắm. Ngày nay chỉ có thể suy ra rằng ngày ấy Nguyễn Du đã dựa vào chữ Hoàng gồm chữ bạch ở trên, chữ vương ở dưới để viết ra câu tỷ sự 比事 17 chỉ dáng trực quân tử: "Mai cốt cách, tuyết tinh thần 枚骨格雪精神" là có thể nghe được. Còn nếu ngày nay có ai đã từng chứng kiến có những cây mai được trồng, được chăm sóc, được bẻ, uốn thành chữ vương , chữ nhâm với 3 nét ngang cụ thể, rõ ràng thì chứng tỏ câu tỷ sự 比事 17 Nguyễn Du viết bằng sự thật, không phải nhào nặn từ óc suy diễn, tưởng tượng phong phú, trác tuyệt của mình. Cũng có thể thời Nguyễn Du mai từng được uốn, tạo thành chữ vương hoặc nhâm , còn chữ bạch  dụ cho chậu cảnh bên dưới. Sau 200 năm thì kỹ thuật uốn mai thành dáng trực quân tử là chữ vương đã thất truyền, mất dấu. Ngày nay chỉ nghe nói dáng mai đổ (dáng huyền), dáng rồng bay, vvv... Tiếp theo câu 17 đã giải thích là câu 18:

 

Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười...

cây mai

Đây là một chiết tự tỷ sự 比事 dùng viết, lấy ra chữ tỷ . Tỷ là so sánh, như khi mang hai vật, hai sự việc, có khi là dạng chữ viết, đặt cạnh nhau để so sánh sự hơn thua, đẹp xấu, có khi chống chỏi, khác nhau của hai bên. Qua 8 chữ "Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười" chúng ta biết hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân xét về ngoại hình là ngang nhau, không bên nào thua bên nào, bởi đây là chị em sinh đôi, giống như hai giọt nước, cho nên tác giả mới có thể xác định người nào cũng mười phân vẹn mười. Trọn đầy hết cả. Tỷ ở đây chỉ là chữ giả tá 假借-vay mượn, để lấy ra những chữ, từ khác, cần thiết cho câu chuyện. Chữ tỵ này đây. Tỵ cũng đọc là thí. Thí đọc thỉ. Thỉ đọc thị. Thị là họ, ngành. Theo giải thích trang chữ Hán thivien.net, thời xưa, tên nhân vật, triều đại hoặc đất nước đều đệm chữ "thị" ở sau, như Phục Hi thị, Thần Nông thị, Cát Thiên thị, Hữu Hổ thị. Cũng theo trang này, ngày xưa người phụ nữ được lấy họ của cha hoặc của chồng thêm vào chữ thị ở sau để gọi, như Trương thị, Vương thị, Trần Lâm thị, Tôn Lý thị, Đào thị, vvv... Gọi như thế cũng để chứng minh, xác định người phụ nữ ngày xưa không có vai vế, địa vị gì trong xã hội, tất cả đều lệ thuộc vào cha, vào chồng, khi cha chết, chồng chết thì lệ thuộc vào con. Đó là quy tắc bất di dịch, đã thành văn của chế độ phong kiến đối với người phụ nữ, đạo Khổng gọi là tam tòng: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.

 

Chữ thị ở đây, qua mấy lần mở âm, chuyển cách viết, cần được hiểu rõ, cụ thể hơn, thị là chữ lót trong họ tên người phụ nữ.

chữ hán

Qua giải thích hai câu 17-18 chúng ta có hai chữ Hoàng và Thị . Tiếp theo, ngược lên trên, câu 15 viết là "Đầu lòng hai ả tố nga". Trong câu có chữ "lòng", "đầu lòng". "Lòng" là nói chung về gan ruột, bụng dạ con người, tiếng dân gian dùng chỉ tấm lòng, là tâm, chung quy "lòng" là tâm, tâm / (tiếng Hán) cũng đọc là toàn. Toàn đọc là tưu. Tưu đọc là thu. Thu là mùa thu. Qua bốn lầm mở âm, chuyển cách viết, từ chữ "lòng", chúng ta lấy ra được chữ thu. Thu  được sử dụng có khi lấy làm tên chính, có khi là chữ lót phụ của tên gọi, dạng chữ lót này khác với chữ thị cốt chỉ để xác định giới tính nam nữ. 

 

Nối theo câu 15 là câu 16:

 

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân...

 

Câu 16 này cũng là chiết tự tỷ sự 比事 được tác giả sử dụng chỉ có mục đích duy nhất: xác định Thúy Kiều, Thúy Vân thì ai là chị, ai là em, ai là người sinh trước, ai là người sinh sau. Thông thường, những chị em, anh em sinh đôi thì ai sinh ra trước người đó sẽ làm chị hoặc làm anh. Người còn lại làm em. Qua câu 16 Nguyễn Du cho chúng ta biết Thúy Kiều là chị của Thúy Vân, tức người sinh trước. Đã đọc lại câu tỷ sự 比事 16 thì cũng nên đọc lại câu chủ ngữ dẫn đường đi trước: "Đầu lòng hai ả tố nga". "Lòng" như đã nói cũng là tâm . Tâm /là chữ tượng trưng cho bộ phận sinh dục của người nữ và người nam. Thông thường, trước khi sinh, hài nhi, ở đây là những cặp sinh đôi, nằm (chung) trong bọc tử cung (tâm ) người mẹ, lúc này không thể biết thai nhi nào sẽ sinh trước, thai nhi nào sẽ sinh sau. Chỉ đến khi người mẹ sinh ra rồi, thì lúc đó người sinh trước sẽ làm chị, người sinh sau làm em.

 

Ngắt ngang đây, chúng ta cần trở lại với câu tỷ sự 比事 17:

 

Mai cốt cách, tuyết tinh thần...

 

Như đã giải thích, câu 17 là chiết tự tỷ sự 比事 được Nguyễn Du sử dụng để viết ra chữ hoàng . Đây cũng chỉ là chữ giả tá 假借-vay mượn, chữ hoàng thảo nhất điền bát này đây mới là chữ nhắm đến của tác giả. Hoàng là họ Hoàng, họ thân phụ của Bắc cung Hoàng hậu Thúy Kiều Thu Mai: Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc. Nhưng câu tỷ sự 比事 17 không chỉ có bấy nhiêu ám chỉ, bóng gió, mà đây còn là câu tỷ sự 比事 dùng để chỉ vào tên tuổi hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân. Chữ "mai /" trong "mai cốt cách 枚骨格" là chữ chỉ thẳng, trực tiếp vào tên của Hoàng hậu Thúy Kiều. Còn "tuyết " là chữ ám chỉ tên của Thúy Vân. Chữ thủy . Thủy là nước, như đã nói ở trước, nước bốc hơi lên thành mây (vân ), gặp không khí lạnh rơi xuống thành mưa, thành nước, chứa ở ao hồ sông biển khe lạch, đến khi gặp thời tiết lạnh nước đóng thành băng, thành tuyết. Như vậy, băng hay tuyết hay nước cũng đều xuất phát, bắt nguồn, lấy ra từ chữ thủy . Như thế, câu tỷ sự 比事 17 "mai cốt cách, tuyết tinh thần 枚骨格雪精神" là một chiết tự kép, được Nguyễn Du Kim Trọng sử dụng có hai mục đích: 1-Viết, lấy ra chữ Hoàng /. 2-Viết, lấy ra hai chữ Mai  và Thủy , là tên của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân. Nếu đã xác định, chấp nhận Thúy Kiều, Thúy Vân là hai chị em sinh đôi, đây là nói theo tư tưởng người đang đọc văn bản giải thích, thì tất nhiên họ tên hai chị em cũng phải đặt như nhau, chỉ khác chữ cuối. Theo đó, Thúy Kiều có tên giấy tờ, sổ sách là Hoàng Thị Thu Mai 黃氏秋玫, Thúy Vân có tên là Hoàng Thị Thu Thủy 黃氏秋水.        

chữ hán
Mai cốt cách, tuyết tinh thần...

Với những gì vừa giải thích, có lẽ sẽ có rất nhiều người ngạc nhiên, không ngờ tên hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân, nhất tên của Thúy Vân-Hoàng Thị Thu Thủy 黃氏秋水, lại được thi hào đất nước ký gởi, cài nén bằng các dạng chiết tự Hán Nôm ẩn trong các câu mà hồi giờ bộ môn văn học xã hội, văn học nhà trường cứ tưởng đó vốn là những câu, những chữ chỉ dùng để tả cảnh, tả tình, tả người thông thường mà thôi. Đơn cử như Truyện Kiều, bản Nôm cổ nhất 1866, của nhà học giả Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú giải, giải "Mai cốt cách": ý nói về dáng vóc con người thanh tú như cành mai. "Cốt cách": bộ xương, kiểu dáng con người. "Tuyết tinh thần": ý nói tình thần trong trắng như tuyết. Riêng văn học nhà trường thì cho "Mai cốt cách, tuyết tinh thần" là: Bằng việc sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng thông qua hai hình ảnh "mai", "tuyết", tác giả gợi lên trước mắt chúng ta vẻ đẹp của hai thiếu nữ với dáng người mảnh dẻ, duyên dáng như cây mai là một loài hoa đẹp và cao quý, tâm hồn của họ trong trắng như tuyết, cả hai đều đẹp hoàn thiện, hoàn mỹ "mười phân vẹn mười", mỗi người mang một vẻ đẹp riêng "mỗi người mỗi vẻ", đúng là cách nhìn đầy ngợi ca trân trọng của tác giả. Với những cách giải nghĩa, chú thích của các nhà nghiên cứu Kiều và văn học nhà trường (đại diện) chứng tỏ tất cả đã không hiểu gì truyện Kiều, đó là lối giải nhà thiền cho là "gãi ngứa ngoài giày", ở đây là câu tỷ sự 比事 17 "Mai cốt cách, tuyết tinh thần". Theo chúng tôi thì sự thật không phải như người ta xúm hiểu, xúm giải xưa nay, mà Kiều là câu chuyện có thật 100/100 của người Việt, nước Việt. Nói đúng hơn, đó là bộ sử Tây Sơn được Nguyễn Du viết bằng thơ Nôm, dựa vào bản văn xuôi Hán ngữ Kim Vân Kiều Truyện cũng của mình viết. Liệu chúng ta có chấp nhận đó là sự thật hay không? Xin mời đọc tiếp vậy. 

 

Nếu người đọc biểu lộ sự ngạc nhiên, sửng sốt như thế sau khi đọc bài viết ngang đây. Còn trong thực tế, những câu Kiều vừa giải thích, nhất hai câu 15-16, không phải chỉ có bấy nhiêu ẩn chứa bí mật. Mà những bí mật, ẩn chứa còn như sau nữa. Theo chúng tôi, hai câu 15-16:

 

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân...

 

ngoài nghĩa giải thích, thì còn có ý ám chỉ vào hai nhân vật, hai con người liên hệ dây mơ rễ má hết sức mật thiết của câu chuyện tình sử chốn quan trường được thi hào chấp bút, trần thuật khi xưa. Viết lại những chuyện có thật, xảy ra trên nước Việt, đoạn đầu là tại Bắc Hà, điện Kính Thiên, đoạn sau là tại Phú Xuân-Thuận Hóa, Cung điện Đan Dương (của vua Quang Trung, người tạo ra cuộc bể dâu hậu bán kỷ 18 đúng như những gì lịch sử ghi nhận trong các sách sử, ở đây là xác nhận, ghi chép ngoài lề của Nguyễn Du qua truyện Kiều). Xin thưa hai câu lục bát 15-16 là để chỉ vào hai trường hợp sinh đôi, trường hợp thứ nhất là hai chị em bà Nguyễn Thị Ngọc Huyền và bà Nguyễn Thị Ngọc Nga. Bà Ngọc Huyền là vợ của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc, là mẹ của chị em Thúy Kiều Thúy Vân, và Văn Quan, không phải Vương Quan, như đã nói. Còn bà Ngọc Nga là vợ của vua Lê Hiển Tông, là mẹ của Công chúa Lê Ngọc Ngân, không phải Hân như ghi chép sai lạc, nhầm lẫn của lịch sử. Trường hợp sinh đôi thứ hai là chị em Thúy Kiều, Thúy Vân mà các bạn đã biết khá rõ từ khi đọc các bài giải Kiều của chúng tôi. Để xác định, nói rõ hơn nữa cho chỗ rất dễ nhầm lẫn, nhập nhằng này. Chữ "đầu", "đầu lòng" của câu 15 được tác giả Kiều sử dụng với mục đích, có ý chỉ vào ở trên, lần đầu, tức lần sinh đôi đầu tiên của hai chị em bà Ngọc Huyền và Ngọc Nga. Còn chữ "lòng" cũng đọc là tấm lòng, là tâm. Tâm là trái tim, tâm /là chữ tương đương với chữ trung , cùng chỉ vào chính giữa, như viên tâm 圓心: chính giữa vòng tròn; trung ương 中心: giữa ruột, giữa vòng tròn và các sự việc, sự vật liên hệ. Theo sách Đại Tự Điển chữ Nôm, tập I, quyển tra theo abc, trang 1153, tác giả Trương Đình Tín, Lê Qúy Ngưu: "lòng 𢚸/𢙱" dùng để chỉ cho vị trí chính giữa, chữ tương đương với chữ tâm , chữ trung . Trung  cũng đọc, có âm là chung. Chung  là hết, kết thúc, là cuối. Như thế, dựa theo ám chỉ hai chữ "đầu-lòng" câu 15 của tác giả Kiều, chúng ta được biết đó là hai chữ dùng ám chỉ, bóng gió cho hai trường hợp sinh đôi như đã nói, giải thích: 1-Lần sinh đầu là hai chị em bà Nguyễn Thị Ngọc Huyền và Nguyễn Thị Ngọc Nga. 2-Lần sinh sau là chị em Thúy Kiều, Thúy Vân. Để hiểu rõ hơn nữa trường hợp hết sức đặc biệt này qua câu 15 mang nội dung chiết tự kép như đã giải thích, các bạn vào đường link kèm theo đọc bài viết Tiếng oan đã muốn vạch trời lên, kéo xuống đọc tiểu đề 5-Đầu lòng hai ả tố nga thì mọi việc sẽ được tường minh, cụ thể, chi tiết hơn nữa. 
https://bonniemxu.com/tieng-oan-da-muon-vach-troi-keu-len

 

Câu tỷ sự 比事 17 "mai cốt cách, tuyết tinh thần 玫骨格雪精神" như đã nói là dạng chiết tự kép, trước dùng để viết ra hai chữ Nhâm Thìn 壬辰, là năm sinh của Thúy Kiều, cũng của Thúy Vân, bởi hai chị em sinh đôi. Nhâm Thìn 壬辰 1772. Sau còn là mật mã, dùng ký gởi ngày tháng sinh của hai chị em. Chữ "tinh " dạng đồng âm của ba chữ "tuyết tinh thần 雪精神" cũng đọc là bính. Bính là can thứ 3 trong thập can. Đồng thời, dựa vào vị trí thứ 3 của can Bính , tác giả Kiều Nguyễn Du còn muốn ám chỉ đó cũng còn là chi Dần thứ 3 trong 12 địa chi. Căn cứ vào đó, dựa vào lịch âm dương lấy từ trang mạng, chúng ta được biết tháng sinh của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân là tháng Giêng Nhâm Dần 壬寅. Trên là tháng 2 dương lịch. Câu 18 "Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười", đúng ra là "mỗi người một vẻ", bởi lo sợ người sau sẽ không hiểu được câu, chữ ám chỉ, hiểu được ý mình, nên tác giả Kiều mới viết chữ "một" thay vì chữ "mỗi", mục đích chỉ vào tháng Giêng Nhâm Dầncũng là dạng chiết tự tỷ sự 比事 chỉ ngày sinh của hai chị em. Đó là ngày 10 Bính Ngọ 丙午 âm lịch (ảnh lịch âm dương kèm theo).

lịch âm dương
Nhờ có lịch âm dương trang mạng công việc nghiên cứu sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.  

Như vậy, dựa vào chữ "tinh " đồng âm mang tính ám chỉ của người chấp bút, trần thuật câu chuyện trong cuộc là Kim Trọng Nguyễn Du trong "tuyết tinh thần 雪精神" của câu tỷ sự 比事17 chúng ta lấy ra được tháng sinh của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân. Ở câu tỷ sự 比事 18 tiếp theo chúng ta còn được biết ngày sinh của hai chị em được tác giả Kiều nói công khai, không cần phải che giấu gì cả. Mà khi đọc qua ai cũng cho đó chỉ là những câu tả cảnh, tả tình thuần túy trong văn học. Không ngờ đó lại là những ám chỉ bí mật lịch sử được viết công khai về ngày tháng năm sinh của những con người có thật, bằng xương bằng thịt của câu chuyện tình sử chốn quan trường của người Việt, nước Việt, nó chẳng liên quan gì đến người Tàu, đến Thanh Tâm Tài Nhân người bên ấy cả. Mà Thanh Tâm Tài Nhân chính là Nguyễn Du! 

 

Bổ túc thêm về câu 17 tỷ sự 比事 "Mai cốt cách, tuyết tinh thần". Ngoài các nghĩa giải thích, thì 6 chữ "Mai cốt cách, tuyết tinh thần" được tác giả Kiều chỉ thẳng vào tâm người. Là phần vô hình bên trong. Cách viết của tác giả tương tự chủ trương thiền tông: "Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật". Đó là lối dạy với người thượng căn. Chỉ thẳng vào thiền, vào tâm. Với người căn cơ mỏng, nghiệp dày, thì phải đi qua cách tu từ thấp lên cao, tức tu bằng ý thức, bằng giới luật, làm thiện, tu phước. 6 chữ "Mai cốt cách, tuyết tinh thần" ở đây nói lên người có tính cách, tâm hồn thanh cao, độ lượng, trong sáng, mềm dẻo, nhu nhuyến, uyển chuyển, rất biết thương người, không phải hạng người nhỏ nhen, hẹp hòi, ích kỷ, ghim ghút. Muốn tả, viết thế này, chỉ tâm, thì phải là người gần gũi, thân cận, giữa hai bên vẫn thường hay qua lại chén tạc chén thù, tâm sự thường xuyên thì mới có thể thấu hiểu được lòng nhau. Người đứng xa không thể viết, tả như thế được, mà phải chờ khi một loạt các sự việc xảy ra rồi, để xem người ấy đối xử, giải quyết ra sao, thế nào, thì tác giả mới có thể đi đến kết luận về bản chất, tính tình, tư tưởng của con người ấy. Tả, viết, dạy đạo như thế cũng tương tự như cách tuyển, giới thiệu người vào làm việc ở các cơ quan, tổ chức bên ngoài xã hội. Nếu người được giới thiệu vốn là người tài năng, có phẩm chất, đạo đức, được lãnh đạo cơ quan giới thiệu cho tổ chức, thì khỏi phải cần qua vòng thử thách, dò xét, trắc nghiệm nào nữa cả. Tôi sẽ chịu mọi trách nhiệm về người này, các anh chị tin lời tôi đi. Người được giới thiệu do đó sẽ được tuyển thẳng vào vị trí làm việc. Nhưng nếu người được giới thiệu không được sự bảo đảm của người lãnh đạo tổ chức, mà chỉ có ý kiến chung chung là nếu làm việc thấy được thì ký hợp đồng dài lâu, đưa vào biên chế, nếu không, thì cho nghỉ. Kiếm người khác. Ở trường hợp trước, là khi hai bên đã quá hiểu về nhau. Trường hợp sau, phải chờ thời gian, chờ cách làm việc thì mới có thể quyết định, thì mới biết đối tượng tốt hay xấu, nhất có khả năng làm việc hay không. Đó là cách làm, xử lý công việc của quen và lạ, xa và gần. Riêng trong văn học, như đã nói, tả, viết như thế phần nhiều là những sách truyện, tác phẩm hư cấu, không có thật. Còn ở đây-truyện Kiều, mới ở phần nhập đề mà tác giả đã tả, viết, chỉ ngay vào tâm như thế thì chứng tỏ đây không phải là câu chuyện hư cấu văn học như xưa nay giới văn học trong nước, ngoài nước vẫn hay bình luận, xác nhận. Trên thực tế khi tả, viết về con người, nhân vật nào thì văn học thời kỳ nào, đất nước nào cũng có một quy ước chung, vẫn hay có lối viết, nhập đề thế này đây:

 

Chương I.
Khi viết những dòng này, tôi đã thức tỉnh trong vài người quen những cảm xúc mà thời gian đã xóa nhòa, và tôi đã xâm phạm đến cõi yên tĩnh nấm mồ của chính cha tôi. Tôi buộc lòng làm vậy, và xin người đọc nể nang những tình cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho ngòi bút kém cỏi của tôi. Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha mình.

 

Cha tôi tên là Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải, tôi không tường mặt, chỉ nghe nói là một người đàn bà cay nghiệt vô cùng. Sống với dì ghẻ, cha tôi trong tuổi niên thiếu đã phải chịu đựng nhiều điều cay đắng. Năm mười hai tuổi, cha tôi trốn nhà ra đi. Ông vào bộ đội, ít khi về nhà.

bìa sách

Khoảng năm... cha tôi về làng lấy vợ. Chắc chắn cuộc hôn nhân này không do tình yêu. Mười ngày nghỉ phép bề bộn công việc. Tình yêu đòi hỏi điều kiện, trong đó thời gian cũng cần.

 

Khi lớn lên, tôi chăng biết gì về cha mình cả. Tôi chắc mẹ tôi hiểu về cha tôi cũng ít. Cả đời cha tôi gắn với súng đạn, chiến tranh.

 

Chương XIV.
... Điện của ông Chưởng: "Thiếu tướng Nguyễn Thuấn, hy sinh khi làm nhiệm vụ hồi... giờ... ngày mai táng tại nghĩa trang liệt sĩ hồi... giờ... ngày". Tôi lặng người. Vợ tôi xếp đặt mọi việc rất nhanh. Tôi ra thuê xe, về nhà đã thấy gọn đâu vào đấy Vợ tôi bảo: "Khóa cửa nhà trên. Ông Cơ ở lại". Xe đi Cao Bằng theo đường số Một. Đến nơi thì lễ an táng cha tôi cử hành đã được hai tiếng đồng hồ. Ông Chưởng bảo: “Chúng tôi có lỗi đối với gia đình". Tôi bảo: “Không phải thế. Đời người có mệnh". Ông Chưởng bảo: "Cha anh là người đáng trọng". Tôi hỏi: "Theo nghi lễ quân đội hả chú". Ông Chưởng bảo: “Cụ ra trận địa, đòi lên chốt". Tôi bảo: " Cháu hiểu rồi, chú đừng kể nữa". Tôi khóc, chưa bao giờ tôi khóc như thế. Bây giờ tôi mới hiểu khóc như cha chết là khóc thế nào. Hình như đấy là cái khóc lớn nhất đời một con người.

 

Chương XIV.
... Có lẽ câu chuyện của tôi kết thúc ở đây. Sau đó nếp sống của gia đình tôi trở lại như là trước ngày cha tôi nghỉ hưu. Vợ tôi tiếp tục công việc bình thường. Tôi đã hoàn thành công trình nghiên cứu điện phân. Ông Cơ trở nên ít nói, một phần vì bệnh cô Lài nặng hơn. Lúc rỗi, tôi giở đọc những điều cha tôi ghi chép. Tôi hiểu cha tôi hơn. Trên đây là những sự việc lộn xộn của hơn một năm cha tôi nghỉ hưu mà tôi chép lại. Tôi coi đấy như nén hương thắp nhớ người. Nếu có ai đã có lòng để mắt đọc điều tôi viết, xin lượng thứ cho tôi.
(Trích TƯỚNG VỀ HƯU. Truyện ngắn của NGUYỄN HUY THIỆP)

 

Đoạn trích trên cho chúng ta biết nhập đề tác giả không biết gì về cha của mình, mà phải đến chương cuối tác giả mới cho độc giả hiểu đôi chút về cha của mình khi một loạt các sự việc đã xảy ra. Truyện ngắn Tướng về hưu này của Nguyễn Huy Thiệp cũng không khác gì những chuyện hư cấu trong văn học khi viết, tả về bất cứ nhân vật nào. Riêng truyện Kiều thì khác hẳn, với cách viết-nhập đề như đã nói trên. Xin thưa đó không phải là cách viết truyện thông thường, thuần túy của văn học, mà đó là cách viết sử hết sức đặc biệt có một không hai của Thanh Tâm Tài Nhân Kim Trọng Nguyễn Du. Nếu lưu ý, chúng ta sẽ thấy khi viết, tả về bất cứ nhân vật nào trong truyện, Nguyễn Du cũng đều kèm theo ngày tháng năm sinh, có khi cả ngày mất, năm mất, và quê quán, tên họ của nhân vật đó. Và đó chính là lý do cơ bản, cốt lõi để chúng tôi xác nhận truyện Kiều là câu chuyện có thật, của người Việt, nước Việt, xảy ra vào hậu bán kỷ 18, thời kỳ nổi lên cuộc khởi nghĩa cách mạng nông dân Tây Sơn do ba anh em Tây Sơn tam kiệt lãnh đạo, chủ trương, mà linh hồn cuộc khởi nghĩa chính là người anh hùng áo vải dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ.

chân dung quang trung
Hỏi tên "Rằng Mã quản binh, Hỏi quê "Rằng huyện Lâm Thanh cũng gần".

Tóm lại. Bốn câu Kiều 15-16-17-18 đoạn nhập đề được tác giả Kiều Kim Trọng Nguyễn Du sử dụng mục đích viết ra tên tuổi, mặt mũi chị em Thúy Kiều 翠翹 Hoàng Thị Thu Mai 黃氏秋玫, Thúy Vân 翠雲 Hoàng Thị Thu Thủy 黃氏秋水. Bởi hai chị em sinh đôi nên tên chỉ khác ở chữ cuối. Kèm theo là ngày tháng năm sinh của hai chị em. Với những gì chúng ta vừa đọc qua, thì không thể còn có lý do nào nữa để bộ môn văn học Việt Nam và Trung Hoa tập trung nói đi nói lại mãi rằng truyện Kiều vốn gốc của người Tàu, xưa kia Nguyễn Du đi sứ, săn nhặt được, mang về Phú Xuân ngồi mằn mò, cặm cụi dịch ra 3254 câu lục bát chữ Nôm, nhằm mang ra ngâm đọc những khi trà dư tửu hậu cùng giới quan lại văn võ triều Nguyễn những khi cao hứng, lúc chếnh choáng hơi men. Tin như thế là tin mù mờ, tin bằng sự tăm tối của truyền thuyết, truyền thống, không phải tin bằng trí tuệ, bằng thực tế qua chứng minh, sự thật. Trong khi những tác phẩm văn học xưa nay được các tác giả thể hiện dưới nhiều góc độ, cách viết khác nhau, ngoài thể loại hư cấu. Xin nhắc lại, truyện Kiều là bộ sử Tây Sơn được Nguyễn Du Kim Trọng viết cho mối tình lỡ làng, trái ngang, gãy cánh giữa đường của mình với người trong mộng đầu đời do thời cuộc chiến chinh đất nước gây ra, mà người quạt bùng lên ngọn lửa chiến tranh ấy, nói đầy chất vừa chiêm nghiệm vừa hoang mang của người đứng ở ngã ba lịch sử là "một phen thay đổi sơn hà, mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?" không ai khác hơn chính là người anh hùng áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ, trong truyện Nguyễn Du đã dùng thủ pháp chiết tự có một không hai của mình để biến hóa Ngài khi là Mã quản binh, khi thì Thúc Sinh, khi thì Kỳ Hải, không phải Từ Hải, vvv... bằng 3254 câu lục bát chữ Nôm trữ tình của dân tộc.

 

Phần phụ lục:
MAI CỐT CÁCH, TUYẾT TINH THẦN (17)
Lô Mai Pha 卢梅坡 thời Nam Tống có 2 bài thơ về mai và tuyết. Bài thơ nói lên mối quan hệ giữa mai, tuyết và thơ, cả ba đều có nét đặc sắc riêng kết hợp lại không thể thiếu một, tạo nên một cảnh xuân tươi đẹp.

 

TUYẾT MAI NHỊ THỦ
Kì nhất
Mai tuyết tranh xuân vị khẳng hàng
Tao nhân các bút phí bình chương
Mai tu tốn tuyết tam phân bạch
Tuyết khước thâu mai nhất đoạn hương

 

Kì nhị
Hữu mai vô tuyết bất tinh thần
Hữu tuyết vô thi tục liễu nhân
Nhật mộ thi thành thiên hựu tuyết
Dữ mai tịnh tác thập phân xuân

 

雪梅二首
其一
梅雪争春未肯降
骚人阁笔费评章
梅须逊雪三分白
雪却输梅一段香

 

其二
有梅无雪不精神
有雪无诗俗了人
日暮诗成天又雪
与梅并作十分春
(卢梅坡)

 

HAI BÀI THƠ VỀ TUYẾT VÀ MAI
Bài 1
Mai và tuyết tự cho mình chiếm được sắc xuân, không ai chịu thua ai
Khiến thi nhân cũng phải gác bút khó viết nên lời bình phẩm
Hoa mai nhường cho tuyết ba phần trắng
Bông tuyết lại thua mai một mùi hương

 

Bài 2
Chỉ có mai mà không có tuyết xem ra không có khí chất tinh thần
Đã có tuyết rồi mà lại không có thơ thấy con người trở nên thô tục
Ngày mùa đông lúc xế chiều làm xong thơ lại thêm trời đổ tuyết
Với mai, cả ba cùng nhau tạo nên cảnh xuân vô cùng tươi đẹp.

 

Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
(“Truyện Kiều” 17 – 18)

 

Mai cốt cách: Vóc dáng mảnh dẻ, thanh nhã như cây mai. Cây mai còn được xem là biểu trưng của người quân tử, có đạo đức trong sáng. Do đó nó chỉ cả tư cách con người vững chắc, trong sáng.
Tuyết tinh thần: Tinh thần trong trắng như tuyết, chỉ lòng trong trắng.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội – 1989)

 

Trong “Kim Vân Kiều” (Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích, ghi rằng:
Đường thi: Hữu mai vô tuyết bất tinh thần, hữu tuyết vô mai tục liễu nhân.
唐詩: 有梅無雪不精神有雪無梅俗了人
(Thơ Đường: Có hoa mai mà không có tuyết điểm thì trông không được tinh thần cốt cách, có tuyết điểm mà không có hoa thì trông tục)
(Sài Gòn: nxb Sống Mới, 1960)

 

Xét: Theo ý riêng (của Huỳnh Chương Hưng), để nói về nét đẹp của Thuý Vân, Thuý Kiều, ở câu 17 và câu 18 trong “Truyện Kiều” Nguyễn Du đã mượn ý từ 2 bài thơ “Tuyết mai nhị thủ” của Lô Mai Pha.
https://www.chuonghung.com/2019/12/dich-thuat-mai-cot-cach-tuyet-tinh-than.html 

chân dung
Ảnh chân dung thầy giáo dạy Hán văn Đại học Quy Nhơn Huỳnh Chương Hưng.

Bài viết của tác giả Huỳnh Chương Hưng về câu tỷ sự 比事 17 "Mai cốt cách, tuyết tinh thần" chỉ thuần túy giải, bàn về điển tích, xuất xứ của câu chuyện, tức tác giả cho rằng Nguyễn Du có thể đã dựa vào hai bài thơ của Lô Mai Pha 卢梅坡 nói về tuyết, mai và thơ để viết ra 6 chữ "Mai cốt cách, tuyết tinh thần". Nhận xét của tác giả Huỳnh Chương Hưng có thể đúng. Ngoài ra, không còn gì nữa. Đó cũng là cái chung, là sự mặc định cứng ngắc của văn học Việt Nam, Trung Hoa qua các thời kỳ, cùng những nhà nghiên cứu Kiều. Riêng bài viết của chúng tôi thì lại khác, đọc xong, ai cũng biết những giải thích mang tính giải mã những ẩn nghĩa trong từng câu, chữ của thi hào đất nước của chúng tôi là đúng hay sai, có lý hay vô lý. Phần đó chúng tôi để cho người đọc quyết định vậy.
*** 

Phụ lục II:
Năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc bệnh rồi chết ở Thăng Long.

 

Năm 1787, Nguyễn Du bốn năm trấn đóng Thái Nguyên, sau trận chiến với quân Tây Sơn, đi giang hồ không nhà không cửa cùng Nguyễn Đại Lang.

 

Năm 1788, tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Đăng Tiến khởi nghĩa tại Tư Nông, bị chỉ huy Giáo bắt được cùng Nguyễn Quýnh giải về cho Nhậm. Nhậm trọng khí khái, tha chết và cho tùy ý muốn đi đâu thì đi. Nguyễn Đại Lang (Nguyễn Đăng Tiến) cùng Nguyễn Du, Nguyễn Quýnh sang Vân Nam, Trung Quốc.

 

Đến nơi Nguyễn Du bị bệnh ba tháng xuân, hết bệnh Nguyễn Du muốn thoát vòng trần tục thành nhà sư Chí Hiên đi chu du Trung Quốc theo gương thi hào Lý Bạch. Họ chia tay tại Liễu Châu, Nguyễn Đại Lang về thăm quê cũ ở Quế Lâm, hẹn gặp nhau tại Trung Châu (Hàng Châu).

 

Nguyễn Du đi chu du muôn dặm tại Trung Quốc (khoảng 5.000 km trong 3 năm), từ Liễu Châu qua Quảng Tây đi đường Trường Sa đến Hán Dương, qua sông Giang Hán đi Trường An và sau đó xuống Hàng Châu, "Giang Nam, Giang Bắc túi tiền không".

 

Tại Hàng Châu, Nguyễn Du ngụ tại chùa Hổ Bào (虎跑寺), nơi nhân vật lịch sử Từ Hải, tức Minh Sơn Hòa thượng, từng tu hành. Nơi đây Nguyễn Du có được quyển Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và quyết chí diễn ca thơ Nôm. Nguyễn Du và Cai Gia Nguyễn Đại Lang gặp lại tại miếu thờ và ngôi mộ của Nhạc Phi ở Hàng Châu (tại mộ Nhạc Phi, Nguyễn Du viết bài thơ Nhạc Vũ Mục mộ 岳武穆墓, nghĩa là "Mộ Nhạc Vũ Mục"), sau đó cùng đi Yên Kinh.

 

Năm Kỷ Hợi (1789), Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại.

 

Năm 1790, Đoàn Nguyễn Tuấn cùng Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn được cử vào sứ bộ của vua Quang Trung giả, sang Trung Quốc triều kiến vua Càn Long.

 

Nguyễn Du trở về Hoàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ đoàn Tây Sơn trên đường đi Nhiệt Hà. Gặp nhau nơi lữ quán hai người đã cùng bàn luận về văn chương chuyện Hồng nhan đa truân. Nguyễn Du về trước và hẹn gặp nhau lại tại Thăng Long.

 

Cuối năm 1790, Nguyễn Du trở về Thăng Long. Ông có mối thân tình quen biết với nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
(Tài liệu lấy trang mạng)

 

{{Lang.related_posts}}

{{Lang.comments}} Facebook

Lên đầu trang