Chào mừng bạn đến với website Bốn Niệm Xứ

DI SẢN CỦA TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG...

Di SẢN CỦA TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG
(TS. Bùi Hữu Dược)
POSTED ON 01/11/2023 BY NGỌC CHÍ

 

Tóm tắt: Tổ sư Minh Đăng Quang là một hiện tượng đặc biệt của Phật giáo Việt Nam. Khi mới ngoài 20 tuổi, ngài đã sáng lập ra một hệ phái Phật giáo mới qua sự kết hợp hài hòa, có chọn lọc hai hệ phái Phật giáo Nam tông và Bắc tông. Vắng bóng ở độ tuổi 32, Tổ sư Minh Đăng Quang được tôn vinh là Tổ sư sáng lập nên hệ phái Khất sĩ và ngài để lại một di sản Phật giáo độc đáo ở Việt Nam.
Từ khóa: Hệ phái Khất sĩ, Minh Đăng Quang, Tổ sư.

 

Tổ sư Minh Đăng Quang là người sáng lập ra hệ phái Phật giáo Khất sĩ, một hệ phái Phật giáo khởi nguồn từ Việt Nam. Hệ phái Khất sĩ phát triển khá nhanh và hiện nay đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới với những hoạt động mang nhiều nét đặc trưng về tổ chức hoạt động, sinh hoạt giáo đoàn, kiến trúc,…

núi mặt trời
Phật giáo Khất sĩ ra đời là một trong những đóng góp quan trọng vào công cuộc chấn hưng Phật giáo
ở Việt Nam, sự dung hợp Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam tông vào thời điểm bấy giờ là khuynh
hướng mới, nhưng rõ ràng đó là một lựa chọn đúng đắn, thể hiện sự phù hợp với nhu cầu xã hội

 

Hoàn cảnh tạo nên con người
1. Tổ sư Minh Đăng Quang, thế danh là Nguyễn Thành Đạt, sinh ngày 04/11/1923 (26 tháng Chín âm lịch năm Quý Hợi) tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình (nay là huyện Tam Bình), tỉnh Vĩnh Long, là con út trong một gia đình có năm người con. Nguyễn Thành Đạt sinh ra được 10 tháng thì mẹ mất.

 

Khi còn nhỏ, Nguyễn Thành Đạt được cha cho đi học chữ và học về tam giáo. Ngài là người có tiếng thông minh và chăm chỉ. Năm 15 tuổi, Nguyễn Thành Đạt xin phép cha đi tìm thầy để học đạo. Trên đường đi tìm thầy, ngài đã đến Campuchia (Nam Vang) và gặp một vị sư người Khmer lai Việt. Ngài đã được học Phật pháp và đường lối y bát chân truyền của Đức Phật (theo hệ phái Nam tông). Cuối năm 1941, Nguyễn Thành Đạt về lại Sài Gòn. Nghe theo lời dạy của cha, ngài lập gia đình năm 1942. Sau đó, vợ và con nhỏ của ngài lần lượt lâm bệnh rồi qua đời.

 

Năm 1944, Nguyễn Thành Đạt xuất gia tu hành tại thị xã Vĩnh Long. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, nơi đây xảy ra sự cố, quân Pháp bắt bớ những người yêu nước kháng chiến, khiến người tu hành không được yên ổn. Nhà Sư trẻ quyết định ra đảo Phú Quốc tu hành, nhưng khi đến Hà Tiên, do không kịp chuyến tàu nên ngài ở tạm tại Mũi Nai để chờ ngày có chuyến tàu khác. Trong những ngày chờ đợi, nhà sư trẻ thiền định và chứng ngộ về vô thường, vô ngã, khổ, vui của cuộc đời… và ngộ được lý pháp “thuyền Bát-nhã”. Ngài quyết định ngược dòng đời cứu độ chúng sinh. Sau đó, ngài về báo tin cho gia đình, rồi trở lại ẩn tu ở vùng Thất Sơn (tỉnh An Giang hiện nay) trong hai năm.

 

Năm 1946, ngài gặp một vị hiền sĩ. Vị này thỉnh ngài về làng Phú Mỹ, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho để tu tập và truyền bá Chánh pháp tại Linh Bửu tự, làng Phú Mỹ. Năm 1947, nhà sư trẻ lấy pháp hiệu Minh Đăng Quang và bắt đầu công cuộc hành đạo, thu nhận đệ tử, xây dựng tịnh xá, thuyết pháp, phát triển Đạo Phật Khất sĩ… Nhà sư Minh Đăng Quang lãnh đạo đoàn Du Tăng Khất sĩ đi khắp các tỉnh thành ở Nam kỳ, vừa hoằng dương Phật pháp, vừa truyền bá pháp tu theo phương thức mới. Ngài chủ trương tích hợp có chọn lọc những giá trị trong tư tưởng của hai truyền thống Phật giáo Thượng Tọa bộ (Nam tông) và Đại Chúng bộ (Bắc tông), đồng thời tiếp biến và dung hòa những yếu tố phù hợp với văn hóa truyền thống của Việt Nam, từ đó hình thành nền Phật giáo dân tộc hiện đại với tên gọi “Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam”, theo phương châm “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp” giữ vững đường lối tu tập do Đức Phật đề ra, thực hiện đúng Giới – Định – Huệ. Ngài khẳng định: “Người khất sĩ chỉ có ba pháp tu học vắn tắt là Giới – Định – Huệ”.

 

Mùng 01/02 Giáp Ngọ (1954), Tổ sư Minh Đăng Quang đi hoằng hóa từ Sa Đéc đến Cần Thơ. Sau ngày đó, không còn ai được gặp lại ngài. Sự kiện đó được các đệ tử sau này gọi là “Đức Tổ sư vắng bóng”. Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng khi ngài 32 tuổi, với 10 năm xuất gia tu hành và hoằng hóa. Tuy hoằng dương Phật pháp và phát triển tông phái tự dựng lập chỉ trong vòng 7 năm nhưng ngài đã để lại cho Phật giáo và đất nước Việt Nam những điều không dễ lý giải.

người tu
Tổ sư Minh Đăng Quang, thế danh là Nguyễn Thành Đạt, sinh ngày 26/9 Quý Hợi (04/11/1923)
tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình (nay là huyện Tam Bình), tỉnh Vĩnh Long, là con út
trong một gia đình có năm người con. Nguyễn Thành Đạt sinh ra được 10 tháng thì mẹ mất.

 

2. Di sản của Tổ sư Minh Đăng Quang 
– Giáo lý: Để giúp cho nhiều người dễ tu học, ngài biên soạn bộ Chơn lý gồm 69 bài pháp luận giải, dễ hiểu, được viết bằng Quốc ngữ. Bộ Chơn lý là sự tóm tắt tinh hoa tư tưởng từ hai truyền thống Phật học Nam tông và Bắc tông bằng chữ Việt. Thời kỳ đó, kinh điển Phật pháp ở Việt Nam phổ biến đối với Bắc tông là chữ Hán và đối với Nam tông là chữ Pāli. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, việc một nhà Sư ngoài 20 tuổi vừa đi hoằng pháp, thu nhận đệ tử, vừa đi xây dựng cơ sở Phật giáo mà viết được bộ Chơn lý bằng chữ Quốc ngữ, tóm lược được cả hai truyền thống Phật giáo Nam tông và Bắc tông là một điều phi thường, thể hiện sức học, sự hiểu biết của Tổ sư về triết lý Phật giáo của hai hệ phái Phật giáo vốn đã phổ biến nhưng bằng chữ Hán và chữ Pāli, để tạo ra một hướng đi mới, vừa giữ được truyền thống, vừa phù hợp với sự phát triển của xã hội. Tư duy và sự mạnh dạn đó khó có được ở người bình thường.
– Thu nhận đệ tử, phát triển Tăng đoàn Khất sĩ: Năm 1947, nhà sư Minh Đăng Quang thu nhận các đệ tử xuất gia đầu tiên gồm bốn đệ tử nam, sáu đệ tử nữ và một chú tiểu khoảng 10 tuổi [1]. Theo lời chỉ dạy của ngài, hội chúng thực hiện khóa an cư kiết hạ năm đầu tiên tại làng Phú Mỹ [2]. Lúc bấy giờ, các vị đệ tử theo phái Khất sĩ gọi nhà sư Minh Đăng Quang là sư trưởng. Năm 1948, Sư trưởng Minh Đăng Quang và các đệ tử bắt đầu hành đạo đến Sài Gòn và các tỉnh miền Đông. Tại Sài Gòn, dân chúng cảm mến đức hạnh của các vị sư Khất sĩ nên Tăng đoàn được mời an cư kiết hạ năm thứ hai tại chùa Kỳ Viên (Nam tông Kinh).

 

Từ khởi đầu đó, đoàn Du Tăng Khất sĩ lớn dần cùng công cuộc hoằng pháp ở nhiều địa phương. Trong dịp lễ Tự tứ năm 1953, sư trưởng giao trách nhiệm quản lý Tăng đoàn cho Trưởng lão Giác Chánh. Cuối năm đó, ngài bổ sung thêm Trưởng lão Giác Tánh và Trưởng lão Giác Như vào vai trò quản lý Tăng đoàn. Đến năm 1954, sư trưởng đã thu nhận hơn 100 Tăng, Ni và cảm hóa hàng vạn cư sĩ. Sau khi ngài vắng bóng vào năm 1954, hội chúng tiếp tục hành đạo theo đường lối đã ấn định. Trong các năm tiếp theo, đoàn Du Tăng Khất sĩ do Trưởng lão Giác Chánh dẫn đầu đã tổ chức hai chuyến hoằng pháp ra miền Trung. Giáo pháp Khất sĩ bắt đầu bén rễ trên vùng đất này.

bông sen
Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, việc một nhà Sư ngoài 20 tuổi vừa đi hoằng pháp, thu nhận đệ tử,
vừa đi xây dựng cơ sở Phật giáo mà viết được bộ Chơn lý bằng chữ Quốc ngữ, tóm lược được cả hai
truyền thống Phật giáo Nam tông và Bắc tông là một điều phi thường, thể hiện sức học, sự hiểu biết của
Tổ sư về triết lý Phật giáo của hai hệ phái Phật giáo vốn đã phổ biến nhưng bằng chữ Hán và chữ Pāli,
để tạo ra một hướng đi mới, vừa giữ được truyền thống, vừa phù hợp với sự phát triển của xã hội.

 

Từ đó, các giáo đoàn hình thành; tuy nhiên, thời bấy giờ, các đơn vị này gọi là “đoàn” và gắn liền với pháp hiệu Trưởng đoàn, chưa gọi là “giáo đoàn” và quy định thứ tự theo số như ngày nay. Năm 1957, đoàn Trưởng lão Giác Tánh và Giác Tịnh, đoàn Trưởng lão Giác An lần lượt ra đời. Năm 1959, đoàn Trưởng lão Giác Nhiên hình thành. Năm 1960, đoàn Trưởng lão Giác Lý được thành lập.

 

Về tên gọi của tổ chức hệ phái, ban đầu, sư trưởng không công bố thành lập Giáo hội Tăng-già Khất sĩ về mặt hành chánh, nhưng danh xưng này xuất hiện nhiều lần trong bộ Chơn lý; và trong các giấy tờ của Tăng Ni, danh xưng Giáo hội Tăng-già Khất sĩ có từ thời sư trưởng Minh Đăng Quang, nhưng chưa phải tổ chức có tư cách pháp nhân. Năm 1964, Trưởng lão Giác Nhiên và hai vị Trưởng lão Giác Nhu, Giác Tường vận động thành lập Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam, tổ chức chính thức ra đời vào năm 1966. Bên cạnh đó, Trưởng lão Giác Huệ thành lập Giáo hội Khất sĩ Việt Nam vào năm 1962. Ni sư Huỳnh Liên dẫn dắt hội chúng Tỳ kheo-Ni từ năm 1947. Năm 1958, Giáo hội Ni giới Khất sĩ Việt Nam được thành lập. Hai tổ chức Giáo hội Khất sĩ Việt Nam và Giáo hội Ni giới Khất sĩ Việt Nam hoạt động độc lập.

 

Cho đến trước năm 1975, Phật giáo Khất sĩ tồn tại ba tổ chức giáo hội gồm: Giáo hội Ni giới Khất sĩ Việt Nam, Giáo hội Khất sĩ Việt Nam và nòng cốt là Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam, với 5 giáo đoàn. Ngoài ra, một số vị xuất gia theo giáo pháp Khất sĩ rồi tách ra tịnh tu, sau đó thu nhận đệ tử và hình thành những nhóm Khất sĩ riêng lẻ.

 

Năm 1981, các đoàn thể Phật giáo Khất sĩ tham gia thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Kể từ đó, các tổ chức và các nhóm Phật giáo Khất sĩ hợp làm một, gọi chung là hệ phái Khất sĩ, bên cạnh hai hệ phái: hệ phái Bắc tông và hệ phái Nam tông trong nền Phật giáo ở Việt Nam. Các tổ chức và nhóm trước đây được gọi theo số thứ tự, từ Giáo đoàn I đến Giáo đoàn VI. Từ đó đến nay, hệ phái Phật giáo Khất sĩ ổn định và phát triển trên tinh thần hòa hợp như Đức Phật từng dạy: “Này các Tỳ kheo, khi nào chúng Tỳ kheo tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết và làm việc Tăng sự trong niệm đoàn kết, thời này các Tỳ kheo, chúng Tỳ kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm” [3].

 

Số lượng Tăng, Ni hệ phái Khất sĩ có sự phát triển rất nhanh cả trong nước và ở nước ngoài. Tính từ năm 1993, cả nước có 15.777 vị sư tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hệ phái Khất sĩ có 245 vị sư (chiếm 1,55%). Năm 2022, cả nước có 55.345 vị sư tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hệ phái Khất sĩ có 5.178 vị sư (chiếm 9,35%), trong số đó có trên 1.400 chư Ni [4].

 

– Xây dựng cơ sở tự viện: Năm 1948, sư trưởng kiến tạo ngôi tịnh xá đầu tiên là tịnh xá Pháp Vân, kế đến là tịnh xá Trúc Viên (về sau đổi tên là Ngọc Thuận), rồi đến tịnh xá Ngọc Viên, cả ba đều tọa lạc tại tỉnh Vĩnh Long. Từ đó, tịnh xá Ngọc Viên trở thành trung tâm hoằng pháp của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam. Năm 1949, Đại lễ Tự tứ và lễ Vu-lan lần đầu tiên được tổ chức tại đây. Đến năm 1954, sư trưởng đã xây dựng trên 20 ngôi tịnh xá. Nối tiếp truyền thống đó, việc xây dựng cơ sở thờ tự của hệ phái Khất sĩ phát triển rất nhanh. Tính từ Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ III năm 1993, cả nước có 8.463 ngôi tự viện thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hệ phái Khất sĩ có 242 ngôi tịnh xá (chiếm 2,85%). Năm 2022, cả nước có 19.547 ngôi tự viện thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hệ phái Khất sĩ có 557 tịnh xá (chiếm 2,84% cả nước) [5].

 

Tuy nhiên, số tự viện Phật giáo cả nước tăng do số lượng địa phương tham gia tổ chức GHPGVN tăng từ 28 tỉnh, thành lên 63 tỉnh, thành. Số tự viện mới xây dựng không đáng kể so với số tịnh xá mới của hệ phái Khất sĩ. Riêng đối với Ni giới hệ phái Khất sĩ, năm 2022, số lượng cơ sở của Ni giới Khất sĩ là trên 350 ngôi (trong đó có 225 tịnh xá, 10 tịnh thất, 23 chùa, 01 niệm Phật đường, 02 thiền viện, 26 cơ sở ở nước ngoài, 90 cơ sở đang được xây dựng, trùng tu) [6].

 

– Về đào tạo Tăng tài: Với truyền thống hiếu học từ Tổ sư truyền lại, thực hiện lời dạy của Đức Phật “Duy tuệ thị nghiệp”, các bậc trưởng thượng trong hệ phái Khất sĩ đã tạo điều kiện và đã động viên Tăng, Ni tích cực học tập, mở mang tri thức. Hệ phái Khất sĩ có số lượng Tăng, Ni học sau đại học chiếm tỉ lệ cao nhất trong tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hiện nay, số lượng Tăng, Ni có bằng Tiến sĩ trong hệ phái là 58 vị. Riêng với Ni giới hệ phái Khất sĩ, hiện nay (2022), số lượng Ni học trên Đại học là: 02 Hậu tiến sĩ; 31 Tiến sĩ Phật học, Triết học, Văn học Phật giáo…; 01 Bác sĩ – Tiến sĩ Y khoa là Ni sư Liên Thanh, Giám đốc phòng khám từ thiện Long Bửu thuộc tỉnh Bình Dương; 15 Thạc sĩ. Hiện nay, 15 vị đang học Tiến sĩ; 18 vị đang học Thạc sĩ. Trên 30 vị Ni tham gia bộ máy các cấp hoặc đang trực tiếp tham gia giảng dạy tại các trường thuộc hệ thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam [7].

 

– Đặc trưng độc đáo của hệ phái Khất sĩ: Trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ gặp không ít chướng duyên, đặc biệt là điều kiện để hoằng pháp do kinh điển bằng chữ Hán và chữ Pāli không dễ học với đại chúng lúc bấy giờ. Nhà sư Minh Đăng Quang dù tuổi đời rất trẻ nhưng đã thể hiện một sự sáng tạo rất lớn là Việt hóa, đơn giản hóa nội dung kinh điển, lấy tôn chỉ “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp” xây dựng Tăng đoàn theo mô hình thời Đức Phật, đề cao hạnh “Khất sĩ”: Thực hiện tu hành sáng nghĩa qua kinh điển, sống giản dị, ba y một bát, không tài sản, ngày khất thực độ đời, dùng đức độ đi vào niềm tin của quần chúng. Nhờ có ưu điểm đó mà Phật giáo Khất sĩ đến với quần chúng một cách rộng rãi và hệ phái phát triển nhanh chóng.

 

Hệ phái Khất sĩ Việt Nam là sự dung hợp truyền thống Phật giáo Nam tông và Bắc tông qua giáo pháp và giới luật.

 

Về giáo pháp: Hệ phái Khất sĩ chọn lọc tư tưởng Phật giáo Bắc truyền và Phật giáo Nam truyền. Tư tưởng Đại thừa được tiếp nhận và được giải thích qua tư tưởng Nguyên thủy, tạo nên sự độc đáo, sâu sắc cho tư tưởng của Phật giáo Khất sĩ.

 

Về giới luật: Giới luật được đề cao và được hành trì một cách tinh nghiêm. Phật giáo Khất sĩ sử dụng Giới bổn của bộ phái Dharmaguptaka mà Phật giáo Đại thừa Việt Nam hành trì. Ngoài ra, Phật giáo Khất sĩ có thêm những quy định biệt truyền. “Phật là giác chơn, là cái biết thật tự nhiên, là nghĩa lý của tiếng Phật, mục đích của cái biết nơi mình, chớ không phải mê tín mờ quáng, mà tự trói mình trong chữ Phật, tiếng đạo, hay tông giáo riêng biệt!” [8].

người họp
Tổ sư Minh Đăng Quang là người sáng lập ra hệ phái Khất sĩ, một hệ phái Phật giáo khởi nguồn từ
Việt Nam. Hệ phái Khất sĩ phát triển khá nhanh và hiện nay đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới
với những hoạt động mang nhiều nét đặc trưng về tổ chức hoạt động, sinh hoạt giáo đoàn, kiến trức,...

 

Hệ phái Khất sĩ đề cao Tứ y pháp:
(1) Người tu xuất gia chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày Hội thuyết pháp được ăn tại chùa.
(2) Người tu xuất gia phải lượm những vải bỏ mà đâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận.
(3) Người tu xuất gia phải nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều, am nhỏ bằng lá, một cửa thì được ở.
(4) Người tu xuất gia chỉ dùng phân uế của bò mà làm th uốc trong khi đau, nhưng có ai cúng thuốc, dầu, đường thì được dùng [9].

 

Cùng với việc đề cao thực hiện giáo pháp và giới luật là nếp sống văn hóa dân tộc, Tổ sư Minh Đăng Quang chủ trương xây dựng hệ phái Khất sĩ thuần văn hóa Việt Nam, giảm đến mức thấp nhất ảnh hưởng từ văn hóa các quốc gia lân cận. Để làm được điều đó, Tổ sư Minh Đăng Quang xây dựng một nếp sống văn hóa đặc thù cho hệ phái Khất sĩ, giản dị mà gần gũi, như: kiến trúc tịnh xá bát giác, đơn giản hóa nghi lễ, đọc tụng kinh kệ bằng tiếng Việt, bài trừ mê tín dị đoan…

 

Phật giáo Khất sĩ ra đời là một trong những đóng góp quan trọng vào công cuộc chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam, sự dung hợp Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam tông vào thời điểm bấy giờ là khuynh hướng mới, nhưng rõ ràng đó là một lựa chọn đúng đắn, thể hiện sự phù hợp với nhu cầu xã hội. Từ sự đơn giản mà rõ ràng, Phật giáo Khất sĩ đã phát triển khá nhanh về nhiều mặt. Phật giáo Khất sĩ đơn giản về hình thức, nhưng chặt chẽ về nội dung, trang nghiêm về giới luật. Đó chính là di sản rất có giá trị mà Tổ sư Minh Đăng Quang để lại cho Phật giáo, đồng thời cũng là điều giải thích vì sao hệ phái Khất sĩ không ngừng phát triển trong và ngoài nước về số lượng Tăng, Ni, cơ sở tự viện, đặc biệt là đội ngũ Tăng, Ni tri thức, có uy tín cao về mọi mặt.
(Trích trang https://tapchivanhoaphatgiao.com/luu-tru/22553)

 

Chú thích:
[*] Nguyên Vụ trưởng Vụ Phật giáo (Ban Tôn giáo Chính phủ), Giảng viên cao cấp Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

[1] Thích Giác Toàn (2015), “Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam: Ánh đạo vàng lan tỏa”, trong Nhiều tác giả, Phật giáo vùng Mê-kông: Ý thức môi trường và toàn cầu hóa, TP. Hồ Chí Minh: Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr.88.
[2] Hành Vân (2016), “Cần có một tiểu sử hoàn chỉnh về đức Tổ sư Minh Đăng Quang”, HT.TS. Thích Trí Quảng, HT.TS. Thích Giác Toàn, TS. Nguyễn Quốc Tuấn (chủ biên), Kỷ yếu hội thảo Hệ phái Khất sĩ: Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập, Hà Nội: Nxb. Hồng Đức, tr.97.
[3] Kinh Trường bộ, “Kinh Đại Bát-niết-bàn”, HT. Thích Minh Châu (dịch), https://suttacentral.net/dn16/vi/minh_chau?lang=en&reference=none&highlight=false, (truy cập ngày 13/10/2023).
[4] Tổng hợp Kỷ yếu Đại hội Phật giáo toàn quốc từ năm 1993-2022.
[5] Sđd.
[6] Theo tư liệu báo cáo hằng nămg của TT. Giác Hoàng, Chánh Thư ký hệ phái Phật giáo Khất sĩ.
[7] NS. Tuệ Liên (2022), “Ni trưởng Huỳnh Liên – Công hạnh và đạo nghiệp với sự hình thành và phát triển Ni giới Hệ phái Khất sĩ Việt Nam”, Hội thảo khoa học Ni trưởng Huỳnh Liên: Những đóng góp cho Đạo pháp – Dân tộc và các giá trị kế thừa (Sách in phục vụ hội thảo, chưa xuất bản).
[8] Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Chơn lý, TP. Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr.733.
[9] Sđd, tr.272.

 

Tài liệu tham khảo:
1. Kinh Trường bộ (2013), HT. Thích Minh Châu (dịch), https://suttacentral.net/dn16/vi/minh_chau?lang=en&reference=none&highlight=false (truy cập ngày 13/8/2023).

2. Tổ sư Minh Đăng Quang (2016), Chơn lý, TP. Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp TP. HCM.
3. Thích Giác Toàn (2015), “Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam: Ánh đạo vàng lan tỏa”, trong Nhiều tác giả, Phật giáo vùng Mê-kông: Ý thức môi trường và toàn cầu hóa, TP HCM: Nxb. Đại học Quốc gia TP HCM.
4. Tỳ kheo Thích Đồng Bổn (chủ biên) (2016), Tiểu sử danh Tăng Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Tôn giáo.
5. Kỷ yếu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam qua các kỳ Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc, từ năm 1993-2022.
6. Ban Tôn giáo Chính phủ (2017), Niên giám chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tôn giáo là đại biểu Quốc hội từ khóa I – khóa XIV, Hà Nội: Nxb. Tôn giáo.
7. NS. Tuệ Liên (2022), “Ni trưởng Huỳnh Liên – Công hạnh và đạo nghiệp với sự hình thành và phát triển Ni giới Hệ phái Khất sĩ Việt Nam”, Hội thảo khoa học Ni trưởng Huỳnh Liên: Những đóng góp cho Đạo pháp – Dân tộc và các giá trị kế thừa”.

 

{{Lang.related_posts}}

{{Lang.comments}} Facebook

Lên đầu trang