LINH HỒN…TƯỢNG ĐÁ
Thưa các bạn,
trước hết, xin mời các bạn đọc tất cả những lá thư mà chúng tôi viết gởi đến các cá nhân và nhiều đơn vị để trình bày về sự việc đi tìm Lăng mộ Hoàng đế Quang Trung của chúng tôi bấy lâu.
Đọc xong, nếu các bạn cảm thấy thích thú, lôi cuốn, hấp dẫn và cũng rất trừu tượng, huyễn hoặc nhưng lại rất có lý, có cơ sở vững chắc, khoa học. Vì sự thật, đôi khi nó lại rất đơn giản, rất trần trụi, rõ ràng chứ không quá rối rắm, nhập nhằng như người ta vẫn thường hay vướng mắc, nhầm lẫn và quanh quẩn, tìm không ra lối thoát từ bao lâu như thế.
Hoàng đế Quang Trung băng hà vào năm Nhâm Tý 1792, mãi 10 năm sau Gia Long mới vào được Phú Xuân, rồi tiến đến thống nhất đất nước. Vậy trong khoảng 10 năm tồn tại này, dĩ nhiên là Triều đình Tây Sơn biết mình cần phải làm những gì, và Lăng mộ, hài cốt, linh cữu của Ngài nên đặt ở đâu để cho được an toàn, bí mật, lâu dài.
Như vậy, 10 năm này là 10 năm của sự chuẩn bị và hiểu biết như thật của một triều đại đối với sự tồn vong, nguy hiểm, một mất một còn khi linh hồn cuộc khởi nghĩa nông dân đã… bất ngờ, đột ngột ra đi. Bỏ lại một trời luyến tiếc, tan vỡ và những kẻ thù độc ác, hèn hạ vô song đang bao vây tứ phía.
Sau đó, tính từ năm Nhâm Tuất 1802 là năm Nguyễn Ánh lên ngôi cho mãi đến năm Ất Dậu 1945 khi Bảo Đại, ông vua cuối cùng của triều đại phong kiến Nguyễn Gia Miêu đọc tuyên ngôn thoái vị, chấp nhận giao ấn kiếm cho sứ bộ ngoại giao Hồ Chí Minh tại Hoàng thành Huế-Phú Xuân là non 150 năm. Có nghĩa là. Trong 150 năm này, thì câu chuyện về Lăng mộ, hài cốt, linh cữu Hoàng đế Quang Trung đã chìm vào quên lãng, hư vô… Bởi tất cả các đời vua sau vua đầu triều Gia Long tuy không hẹn nhưng đã nhất loạt cùng nhau mặc định, yên trí, hô khẩu hiệu và tin chắc rằng: “Hài cốt, linh cữu của ngụy, của tướng giặc đã bị Thế tổ nhà ta quật phá, tiêu diệt sạch sẽ hết rồi! Sướng thật. Đáng đời cho y lắm! ”.
Vì thế, Quốc Sử quán là nơi ghi chép sử hoàn bị, đầy đủ nhất của triều Nguyễn đã ghi chép lại sự việc này. Sự việc Gia Long quật phá lăng mộ Hoàng đế Quang Trung tại “vu Hương giang chi nam”. Vu tiếng Hán là thành quách, lâu đài bị bỏ hoang phế, cỏ rác mọc bừa bãi. Giang là sông, nam là hướng nam. Cung Điện Đan Dương, nói về địa lý của Huế nằm ở hướng nam, sông Hương, thuộc quần thể núi Dương Xuân.
Sau năm Ất Dậu 1945, năm Bảo Đại thoái vị, giao ấn kiếm cho chính quyền mới rồi bôn tẩu ra sống ở nước ngoài, thì lúc này đất nước và lòng người lại bị chia đôi, chia ba… Và người ta đã lấy vĩ tuyến 17, cầu Hiền Lương làm ranh giới ngăn chia đất nước chính thức từ năm Giáp Ngọ 1954. Vậy, tính từ năm Ất Dậu 1945 đến năm Ất Mẹo 1975, năm đất nước thống nhất, hòa bình là 30 năm. Và suốt thời gian 30 năm này thì lịch sử hai miền Bắc Nam vẫn cứ ì ạch, cặm cụi, hì hục ghi ghi chép chép theo lịch sử triều Nguyễn, theo truyền miệng nhân gian là Lăng mộ, hài cốt Hoàng đế Quang Trung đã như vậy, đã như thế, còn gì đâu…
Niềm tin, Tín lực mà! Và niềm tin, Tín lực nó vốn có một sức mạnh vô biên, không tưởng đấy chứ?
Nhưng chúng ta cũng cần phải hiểu và biến nhập vào sự thật như thế này. Trừ đi 150 năm như đã nói, thì trong 30 năm khói lửa bom gào đạn thét nối tiếp này đâu có ai dám đặt một ý niệm, một câu hỏi là sẽ thử đi tìm Lăng mộ Hoàng đế Quang Trung hiện đang ở đâu? Và có bị Gia Long quật phá, bêu xấu như sách sử đã ghi chép hay không?
Lam Sơn ơi, hồn Chí Linh, sông Đằng, Vạn Kiếp hay Hạ Hồi, những dòng lịch sử đâu rồi...
Rồi từ năm Ất Mẹo 1975 đến năm Ất Sửu 1985, rồi sang năm Canh Ngọ 1990. Thời gian này, đất nước đang còn trong thời kỳ bao cấp. Là thời kỳ mà nhân dân, cán bộ cùng công nhân ban ngành, cơ quan đã và đang sử dụng tem phiếu, sắp hàng thứ tự cho việc cung cầu lương thực, thực phẩm, các loại nhu yếu phẩm tiêu dùng, sử dụng hàng ngày. Nói đúng hơn, thời kỳ này đất nước đang oằn mình, còng lưng trong công cuộc xây dựng, phục hồi những tổn thất, đổ nát, điêu tàn sau một thời đạn bom, chết chóc. Nói chung là thời kỳ với những bất cập, chống đối về lề lối làm việc, học tập, giảng dạy, tiền lương, vật giá và cải tạo nông công thương nghiệp bởi sự sát nhập về con người, về văn hóa vùng miền và về tư tưởng, chế độ, chủ trương, chính sách, chính trị, quân sự, vvv…
Và tất nhiên, trong vòng 10 năm, 15 năm này theo chúng tôi thì cũng không có ai rỗi việc ngồi đặt một nghi vấn, một câu hỏi về những sự kiện bí ẩn đối với lịch sử, đối với một triều đại và một con người đã đi qua, đã chìm vào quên lãng, khói sương bởi túc tắc, ì ạch, bôn ba, chộn rộn vì chén cơm manh áo, đói no giữa đời thường và với hết ngày lại đêm, với hết xuôi ra biển lại mưa về nguồn…
Có một nhà thơ làm một bài thơ ngắn, gọn như thế này:
Nhích từng chút, dịch từng kim,
Vòng tròn chầm chậm im lìm ba kim.
Thế mà biển cạn non chìm,
Trải bao dâu bể hận niềm tha nhân!
(CHIẾC ĐỒNG HỒ)
Có phải chúng ta, tôi anh chị, những con người không hẹn mà gặp, không kêu mà ứng rồi sẽ cùng nhau đi về một hướng. Hướng không có đầu cuối, trên dưới, thật hư. Nó chỉ có từ…chập chùng cho đến chập chùng...
Đúng hay không, còn gì nữa với 150 năm cai trị, 150 năm nhấn chìm, che đậy, tiêu diệt rồi tiếp theo là 30 năm chia đôi đất nước, 30 năm bom đạn tơi bời và 15 năm nữa oằn mình ra dọn dẹp, thu vén chiến trường lẫn 15 năm của nghi ngờ, phân vân, chống đối, trốn chạy…
Vị chi là 195 năm, nó được lấy ra từ bài tính cộng đơn giản, thực tế, rõ ràng:
150+30+15=195.
Thưa các bạn,
chúng tôi không biết rõ là từ giờ phút giây, ngày tháng năm nào thì người ta, những người đam mê, thích thú môn lịch sử lẫn óc phiêu lưu, mạo hiểm, điều tra phá án bắt tay vào hành trình lội ngược dòng lịch sử, vén màn bí mật cổ kim?
Theo chúng tôi được hiểu, có thể chính xác chỉ từ năm Canh Ngọ 1990 trở về sau này mà thôi. Vì đây là năm khởi đầu mà Nhà nước Việt Nam cần phải có một thái độ, một tư tưởng dứt khoát, đúng đắn, rõ ràng về nhân quyền và về tôn giáo, tín ngưỡng. Đây cũng là năm được tháo gỡ lệnh cấm vận của Mỹ với Việt Nam sau một thời gian dài lạnh lùng, chia cắt mà cả hai phía không hề biết rằng có một vĩ nhân cách đây 25 thế kỉ đã từng nói, từng cảnh giác cho xã hội loài người sau một thời kỳ kéo dài và một lối sống vô nghĩa, khổ đau: "Giữa cái dĩ vãng đã thoát khỏi tay chúng ta, và cái tương lai mà chúng ta không thể biết rõ. Còn lại cái hiện tại nói rõ bổn phận của chúng ta."
Và từ năm Canh Ngọ 1990 đến nay, năm Ất Mùi 2015 là 25 năm. 25 năm của độc lập, tự do, nhân quyền, có thể nói như vậy hay không khi 25 năm này có biết bao sự đổi thay của một đất nước, quê hương sau một thời kỳ dài lâu khuất chìm trong lạc hậu, bế tắc và loay hoay, cuống quýt tháo gỡ cái này, dẹp bỏ cái kia…
Lại chúng ta cũng cần phải thấy ra như thế này. Kể từ năm Canh Ngọ 1990 trở đi nếu như đã có người nào đó khởi đầu cho một hành trình, lội ngược dòng lịch sử cho đến hôm nay, năm Ất Mùi 2015 thì sự thật, bí ẩn ấy của lịch sử vẫn chưa hề được vén mở. Nghĩa là. Tất cả mọi đi tìm, mọi nghi vấn, bàn luận cuối cùng rồi cũng rơi vào bế tắc, tuyệt đường. Cuối cùng, chỉ còn biết lượm nhai lại bã mía, đờm dãi của người xưa...
Và chỉ đến khi chúng tôi hữu ý vô tình bắt tay vào việc, khởi đầu tại Tịnh thất Kim Châu ở Cát Lợi, Nha Trang-Khánh Hòa lúc 15h30 của những ngày đầu tháng 5 năm 2013 thì sự thật mới bắt đầu được vén mở dần dần và dần dần…
Vậy thì, có thể nói như thế này mà không hề sợ nhầm lẫn hoặc độc đoán, cao ngạo. Năm Quý Tỵ 2013 mới chính thức được xem là năm có người đặt ra một câu hỏi nghiêm túc, chính xác và làm việc đúng đắn, hiệu nghiệm, thành công tốt đẹp đối với bí ẩn, sự thật của lịch sử, của đất nước.
Đem 2 năm này, từ năm Quý Tỵ 2013 đến năm Ất Mùi 2015, cộng với 10 năm (đúng hơn là 9 năm, vì năm Tân Dậu 1801 Gia Long đã lấy Phú Xuân-Huế rồi) cũ. Tức là 10 năm của sự thật, 10 năm của một triều đại và một câu chuyện thần thoại, hấp dẫn được viết dang dở...
12 năm, vậy chúng ta, thử xem nó có quá mơ hồ, quá huyễn hoặc, trừu tượng hay không để đi xác lập, làm một bài toán, một lối suy luận hòng truy nguyên ra sự thật? Bởi vì tất cả những không gian, những vị trí và những con đường cùng những… chứng cứ vẫn còn đấy ở khắp đây kia. Có chăng chỉ là những thay đổi không đáng kể, bận tâm, nghiêm trọng nhưng người ta lại không lưu ý bởi vẫn cứ thường hay nhầm tưởng, nhập nhằng, nhá nhem, mơ hồ, lẩn quẩn, vòng vo khi cho rằng, mặc định rằng:
222 năm rồi còn đâu?
Thưa các bạn, các bạn sẽ nghĩ sao nếu các bạn là một người thuộc giòng dõi con cháu có huyết quản, bà con cùng với những người đã khuất, là Hoàng đế Quang Trung, sao lại đành lòng, quay lưng để cho hài cốt, linh cữu, lăng mộ của cha ông, tổ tiên bị kẻ thù quật phá tan tành, rêu rao, bêu xấu như vậy chứ? Hay các bạn sẽ tìm mọi cách di chuyển, che dấu bằng mọi giá dù có phải hy sinh tính mạng, thấp hơn, ít hơn là chút đỉnh vật chất, tiền bạc không đáng kể, đáng tiếc? Vì vật chất, vàng bạc nếu không phải làm ra để tiêu pha vào việc này, việc kia thì cũng sẽ mất trắng bởi các bạn không thể mang nó đi vào thế giới bên kia sau khi trút một hơi thở, chấm dứt một đời sống mộng mị, hoang tưởng…
Bây giờ, trong hiện tại, nếu các bạn có niềm tin, có cách suy luận riêng, cá biệt trên lĩnh vực văn chương, báo chí. Mong các bạn sẽ hỗ trợ chúng tôi để mang sự thật trưng bày ra trước con mắt của mọi con người. Mặc dù trước các bạn không lâu, lúc 8h hơn, hình như là ngày 20-01-2015 chúng tôi cũng đã nhờ em Chu Ngọc Cường, giám đốc công ty mua bán trực tuyến 365 ở Hà Nội kết nối với… Tiến sĩ sử học Lê Mạnh Thát nhưng đã thất bại. Bởi trong các ngày vừa qua, những ngày sau khi đọc xong các lá thư rồi đến những hình ảnh chúng tôi chụp tại Tháp mộ gởi kèm thì vị Tiến sĩ này vẫn… hoàn toàn bặt vô âm tín, bóng chim tăm cá. Chắc có nhẽ ông ta, vị Tiến sĩ sử học đáng kính ấy vẫn rập khuôn, đặt bước đi theo đường lối tư duy của những con người, những linh hồn… tượng đá lúc nào cũng vẫn trơ trơ, bất động, đánh không rên, kêu cũng không ư hử gì cả hay chăng ?
Tội nghiệp thật và đáng thương thật cho những bộ óc, những linh hồn…tượng đá và những đường hướng học tập, làm việc không chịu lấy sự thật, chân lý làm mục đích, chí hướng tiến thủ hòng khám phá và đột phá. Vì thế, những đường hướng học tập, làm việc cùng rất nhiều những con người, những linh hồn… tượng đá đã rớt ra ngoài vòng quay bánh xe lịch sử và đã bị bánh xe lịch sử cán nát thành tro bụi, thảm thương sao cứ đến một cách.
Chúng tôi xin dừng bút nơi đây. Chúc các bạn và độc giả sức khỏe, an lạc. Rất mong sự nhiệt tình, năng nổ của các bạn cho công việc. Một công việc, nói gì thì nói nó vẫn rất khó hiểu, khó suy luận nếu không có tỉnh giác chánh niệm trước đa chiều hướng thông tin hòng có thể đặt một ý niệm, một câu hỏi phản pháo, phá phách bởi sự nhập nhằng, rối rắm, mù mờ của ý thức, của hiểu biết và bản ngã con người vốn rất dễ bị cuốn hút, xoáy trôi theo dòng đời.
Bài viết này, đúng ra là một lá thư với dự định sẽ gửi đến một vài nơi có thể nữa nhưng chúng tôi e sợ. Nó rồi sẽ bị từ chối, lãnh đạm bởi những linh hồn… tượng đá chai lì, khô cứng mà chúng tôi đã gặp vừa qua thì rách việc, uổng công toi. Nên sau khi đắn đo, ngập ngừng, chúng tôi quyết định đổi đề tài, và gửi đến các bạn. Những phóng viên, những cơ quan báo chí vì các bạn là những người đại diện và đang đeo bám, theo dõi chặt chẽ, sát sao đối với các vấn đề, sự kiện nóng bỏng trong xã hội, đất nước. Nhất lại thời kỳ này. Thời kỳ Việt Nam đang dần nhìn ra những điểm mạnh yếu vốn có, và cái gì nên làm, không nên làm, cái gì cần phải đập bỏ, cái gì cần phải xây dựng hòng đưa đất nước ngẩng cao đầu với bè bạn bốn biển năm châu.
Ghi chú: Bài viết này viết trước đây hai năm, rất tiếc chúng tôi đã tìm không ra đường dây liên lạc làm việc, vì Ts Lê Mạnh Thát im lặng như vậy chứng tỏ con người này có thể có một khuynh hướng ngã theo nhà Nguyễn, bởi Lê Mạnh Thát là người Quảng Trị. Trước khi viết bài này chúng tôi có gởi cho ts Lê Mạnh Thát một bài viết về những gì cần phải biết, phải nói. Sau mới viết đến bài này. Trong thời điểm này chúng tôi không có máy tính, tất cả nhờ các em quen ở Hà Nội đến nhà nghĩ đánh giùm. Tiền bạc ăn ở thời gian ra đây do em Chu Ngọc Cường thanh toán. Chúng tôi mới có máy tính hai tháng nay. Trước toàn viết tay, xong mang ra Hội An gõ, vì chú Khôi ở 28 Trần Hưng Đạo ngoài này gõ rất chuẩn hơn bất cứ ở đâu mà tôi đã biết, từ Nha Trang, Pleiku, Quy Nhơn...
Việc làm của chúng tôi nếu không bị chặn lại từ rất nhiều người và nhiều ban ngành, cơ quan của nhà nước, chính quyền, trong đó có một số người gốc Huế thì đã xong từ cuối năm 2014. Vì thời điểm này chúng tôi đã gởi cho Chủ tịch Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lá thư cùng nội dung. Nhưng có thể do ban thư ký chọn lọc thông tin, bài vở, thư từ đã loại bỏ từ dưới nên thư sau đó không thể đến tay hai vị cán bộ quyền lực cao cấp này.