TỪ MỘT BẢN ĐỒ HÀNG HẢI CỔ
LUẬN BÀN VỀ DANH TÍNH NƯỚC VIỆT
Posted on 12/02/2018 by The Observer
Print Friendly, PDF & Email
Tác giả: Trần Gia Ninh
Tấm bản đồ hàng hải (nautical map) trong ảnh được vẽ vào khoảng giữa của thế kỷ 16, có lẽ là một bản đồ cổ nhất và khá đầy đủ mà các nhà hàng hải phương Tây vẽ về Phương Đông. Bản đồ gốc hiện được treo trên tường thư phòng của Hoàng Đế Phelipe II (1527-1598), trong cung điện El Escorial của Vương quốc Tây Ban Nha.
Tấm bản đồ này được vẽ cùng thời với N. Copernicus cho rằng trái đất tròn quay quanh mặt trời (1543) và G.Galilei mới chào đời (1564). Thế kỷ 16 bắt đầu là triều đại nhà Lê (vua Lê Tương Dực) tiếp đó là nhà Mạc 1527-1593, ở nước ta lúc đó có tên là nước Đại Việt. Khi xem tấm bản đồ, chắc người Việt nào cũng giật mình thấy trong khi các địa danh CAMBODIA (Campuchia), CHAMPA (Chiêm Thành) được ghi rất rõ ràng, thì không thấy tên nước Đại Việt ở đâu cả?
Tấm bản đồ hàng hải này nghe nói được vẽ vào giữa thế kỷ 16. Thời đại nhà Lê
Nhìn phía bắc Champa ta chỉ thấy có một nước tên là CAUCHY CHINA. Phía trên của nước này ghi rõ là CHINA. Đúng đó là Đại Việt ta rồi! Thì ra dưới con mắt của các nhà hàng hải đầu tiên từ Bồ Đào Nha-Tây Ban Nha, nước Đại Việt vào Thế Kỷ 16 được gọi là CAUCHY CHINA!
Lạm bàn về lịch sử về tên gọi của nước Việt trên dải đất hình chữ S.
CAUCHY CHINA thực ra không phải là cái tên đầu tiên người Tây Phương đặt cho nước Việt. Trước khi thuyền đầu tiên của người Bồ Đào Nha đến phương Đông, những ghi chép sớm nhất về phương Đông có lẽ là thuộc về Marco Polo, một thương gia người Ý, ông ta đến Trung Hoa năm 1271 làm quan cho nhà Nguyên 24 năm và trở về Ý năm 1295. Đoạn ghi chép dưới đây của Marco Polo được cho là kể về Giao Chỉ [[1]]:
“Caugigu là một vùng ở phía đông, có một vị vua. Người dân theo bái vật giáo, và có một ngôn ngữ riêng. Họ thần phục Đại Hãn và hàng năm đều đến triều cống. Tôi cần nói rõ rằng nhà vua của họ rất giàu sang ,ông ta có ít nhất 300 bà vợ; vì khi ông ta nghe nói ở đâu trong nước có con gái xinh đẹp, ông ta đều chiếm lấy làm vợ. Xứ này có rất nhiều vàng và nhiều gia vị quý. Nhưng vì ở xa biển nên các sản phẩm it có giá trị nên giá rẻ. Họ có voi với số lượng lớn, có nhiều loại gia súc khác cùng các loài dã thú, và rất nhiều trò chơi. Họ sống bằng thịt, sữa và gạo, và có rượu làm bằng gạo và gia vị ngon. Toàn bộ người dân, hoặc gần như vậy, đều dùng kim xăm lên da hình sư tử, con rồng, chim muông, và gì gì đó nữa và đã xăm lên là không thể xóa được. Việc xăm hình này được làm trên mặt , cổ, ngực, cánh tay và bàn tay, cả bụng nữa, và, nói ngắn gọn là trên toàn bộ cơ thể; và họ coi đó như là một dấu hiệu của sự sang trọng, người nào có càng nhiều tơ lụa hoa văn thì càng được ngưỡng mộ.”
Như vậy, vào cuối thế kỷ 13, nước gọi là Caugigu có thể Marco Polo ghi âm chữ Hán “Giao Chỉ quốc -交趾國” theo cách gọi nước ta của Trung Hoa thời nhà Nguyên. Ở nước ta lúc đó là thời kỳ trị vì của vua Trần Nhân Tông, tên nước là Đại Việt. Về sau có người bàn rằng Marco Polo có lẽ chưa đến Caugigu mà chỉ nghe kể lại. Và chưa chắc Caugigu là Giao Chỉ mà có thể là Lào, Miến Điện… cũng nên.
Khoảng một trăm năm mươi năm sau Marco Polo, một người Bồ Đào Nha, Tome Pires đã đến phương Đông và đã viết quyển sách ghi chép khá đầy đủ về Phương Đông từ Biển Đỏ đến Nhật Bản. Tome Pires (1468-1540) là một dược sĩ, nhà ngoại giao đồng thời là nhà văn, xuất phát từ KOCHI (Cauchy), nay là một hải cảng ở bang Kerala, tây nam Ấn Độ, năm 1502 bị Bồ Đào Nha chiếm, lập nên cứ điểm đầu tiên của Bồ Đào Nha ở phương đông. Từ KOCHI ông đi theo đường biển, đến Malacca ngay sau cuộc viễn chinh thắng lợi của người Bồ Đào Nha đến phương Đông 1511 chiếm được xứ này. Ông ở Malaca từ 1512 đến 1515. Năm 1516 ông được cử làm sứ thần đầu tiên của một quốc gia châu Âu đến Trung Hoa, xin trình diện Hoàng Đế Chính Đức triều đại nhà Minh, và chết ở Trung Hoa. Ông đã thám hiểm các vùng của Đông Nam Á như Malaya, Indonesia, Champa… ngày nay. Ông đã đi dọc bờ biển từ Malacca, Cambodgia, Champa và có thể qua Đại Việt rồi đến Macao, Quảng Đông. Là một nhà văn, Tome Pires đã viết rất tỷ mỉ, sinh động mọi điều ông trông thấy, nghe thấy ở các vùng đất mà ông đã viếng thăm. Quyển sách “A Suma Oriental de Tomé Pires”-(Phương Đông Kỳ Diệu) là văn bản tỉ mỷ nhất đầu tiên của phương Tây mô tả về phương Đông từ Biển Đỏ đến Nhật Bản. Quyển sách được cho là được viết trong khoảng 1512-1515, lúc đó ở nước Đại Việt ta là thời vua Lê Tương Dực, chưa có chuyện vua Lê chúa Trịnh. Ông viết:
"Vua của CAUCHY CHINA là vua của một nước rộng lớn và giàu có hơn nước Champa. Vương quốc này nằm giữa Champa và Trung Quốc. Vị vua là một chiến binh hùng mạnh trong vùng đất. Ông ta có rất nhiều thương thuyền (lancharas) và ba mươi hoặc bốn mươi thuyền buồm (junks). Quốc gia này có nhiều con sông lớn có thể chạy thuyền được. Không có nhiều người ở đó, họ tập trung nhiều ở gần biển. Đất nước của vị vua trải dài sâu vào trong đất liền. Ở Malacca đất nước của vị vua này được gọi là Cauchy China (Cauchy Chyna), để khỏi lẫn với tên của Cauchy Coulam.
Vua là một người ngoại đạo, và tất cả dân của Ngài cũng như vậy. Họ không thân thiện với người Moors (da đen). Họ không đi thuyền đến Malacca, nhưng đến Trung Quốc và đến Champa. Họ là những người rất yếu trên biển; tất cả họạt động của họ là ở trong đất liền. Họ có những lãnh chúa tuyệt vời. Nhà Vua nước này gắn kết với nhà vua của Trung Hoa bằng các cuộc hôn nhân; vì không muốn đánh nhau với Trung Quốc, ông ta luôn cử một sứ thần chầu chực tại triều đình Trung Quốc ngay cả khi vua của Cauchy China không muốn như vậy, và dù cho có bất mãn vì bị triều đình Trung Hoa coi là chư hầu.
Vùng đất CAUCHY CHINA có rất nhiều ngựa. Vua nước này dồn nhiều sức cho chiến tranh, và ngài có vô số ngự lâm quân và bom đạn nhỏ… Rất nhiều bột thuốc súng được sử dụng ở nước của ngài, cả trong chiến tranh và trong các lễ lạt của vua quan và các trò vui chơi giải trí suốt ngày đêm. Tất cả các lãnh chúa, quý tộc trong vương quốc cũng như vậy. Thuốc súng được sử dụng hàng ngày trong pháo thăng thiên (tên lửa) và tất cả các trò chơi thú vị khác, như chúng ta sẽ thấy, đó là một trong những mặt hàng buôn bán có giá trị ở xứ này.
Chủ yếu ở xứ này là vàng và bạc, nhiều hơn ở Champa; còn buôn bán trầm hương không phải là nhiều như ở Champa. Ở xứ này có đồ sứ và đồ gốm-một số loại có giá trị lớn-và những thứ này được đưa từ đó đến bán ở Trung Hoa. Họ có các loại lụa (taffeta) Cauchy tốt hơn, lớn hơn rộng hơn và đẹp hơn lụa của mọi nơi khác, kể cả của Trung Hoa. Họ có tơ nguyên chất tốt nhất (?) màu sắc rất phong phú, và tất cả những thứ gì họ có đều được làm một cách tinh tế và hoàn hảo, không có những khiếm khuyết như ở các xứ khác, và họ cũng có ngọc trai và không nhiều.
Thứ hàng hóa đầu bảng được đánh giá cao tại Cochin China là lưu huỳnh, và [họ sẽ mua] đến hai mươi thuyền nếu người ta có thể bán cho họ bao nhiêu cũng được; và lưu huỳnh từ Trung Quốc là CocMn (?) rất có giá trị. Đây là một cuộc làm ăn rất lớn từ Trung Quốc đến Malacca, đến các hòn đào của Solor nằm ngoài Java, (như sẽ được đề cập khi mô tả chúng); và từ đây hàng hóa đi đến Cauchy China. Một lượng lớn diêm tiêu [tức muối Kalinitrat để chế thuốc súng-TGN] cũng rất quý, và số lớn diêm tiêu được bán ở đó là từ Trung Hoa tới. Hồng ngọc, kim cương, ngọc bích và tất cả các loại đá quý khác cũng được giá, và cả thuốc phiện, nhưng ít giá hơn, hạt tiêu ít hơn nữa, và tương tự như vậy với những thứ khác có giá trị ở Trung Hoa. Hương liệu lỏng có giá khá tốt.
Người ở đây ít khi đến Malacca bằng thuyền của họ. Họ đi đến Trung Quốc, đến Quảng đông là một thành phố lớn, hợp đoàn với người Trung Hoa (?); rồi họ đi thuyền đến Malacca để buôn bán chung với người Trung Hoa. Mặt hàng chính của họ là vàng bạc và những thứ họ mua được ở Trung Hoa”.[[2]]
Vậy là nước Đại Việt ta lại một lần nữa (sau Marco Polo) được ghi danh bởi phương Tây không phải là Đại Việt. Mà là CAUCHY CHINA trong tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Pháp và tiếng Anh gọi là COCHINCHINA. Người ta cho rằng CAUCHY là do Tome Pires phiên âm từ tên mà người dân ở Malacca gọi “Giao Chỉ” bằng tiếng Malaya. Bởi vì để khỏi lẫn với CAUCHI (tức KOCHI) cứ điểm của Bồ Đào Nha ở Ấn Độ nên Pires mới thêm vào chữ CHINA. Nhiều học giả Việt Nam cho rằng COCHINCHINA là tên chỉ xứ Đàng Trong. Đó là ngộ nhận, vì khi tên Cochinchina xuất hiện thì làm gì đã có Đàng Trong. Chúa Nguyễn Hoàng 阮潢 có thể coi là thủy tổ của xứ Đàng Trong mới được sinh ra vào 28 tháng 8, 1525, còn tên CAUCHY CHINA thì có từ khoảng 1512-1515 tức là 10 năm trước khi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chào đời.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao trên dải đất hình chữ S lúc bấy giờ có ba quốc gia mà chỉ có hai quốc gia là Cambodgia và Champa được người phương Tây gọi đúng tên, còn Đại Việt ta thì không? Điều này có thể lý giải rằng người phương Tây tới phương Đông đầu tiên (Marco Polo) theo đường bộ (con đường tơ lụa) đến Trung Hoa rồi có lẽ sau đó mới nghe nói đến nước ta (hoặc có thể có đến nước ta), do đó họ gọi tên nước ta theo cách gọi của người Trung Hoa. Về sau người phương Tây (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan…) đến viễn đông thường theo đường biển. Hải trình của họ thường từ eo Malacca đến một hải cảng nào đó của Champa, có lẽ là vùng Phú Yên-Khánh Hòa ngày nay rồi từ đó đi về phía đông Hải Nam đến Macao, Nhật Bản mà không đi men theo bờ biển vịnh Bắc Bộ. Như vậy họ không tiếp xúc trực tiếp với người của triều đình Việt, nên họ gọi tên nước ta theo cách gọi họ nghe được từ Malacca. Ta cũng nên lưu ý rằng cứ điểm đầu tiên của Bồ Đào Nha ở Viễn Đông không phải là ở nước ta mà lại ở Macao Trung Hoa cũng là vì lý do thuận tiện của hải trình.
Năm 1513, Jorge Álvares trở thành người Bồ Đào Nha đầu tiên đặt chân đến Trung Quốc. Năm 1535, các thương nhân Bồ Đào Nha đã có được quyền neo tàu ở các bến cảng của Ma Cao và thực hiện hoạt động giao thương, mặc dù không có quyền ở trên bờ. Khoảng 1552–1553, họ giành được sự cho phép tạm thời để lưu trữ hàng hóa trên kho được dựng trên bờ, họ nhanh chóng xây dựng các ngôi nhà thô sơ bằng đá quanh khu vực mà nay được gọi là Nam Loan. Năm 1557, người Bồ Đào Nha thành lập một khu dân cư lâu dài tại Ma Cao, trả 500 lạng bạc mỗi năm cho tiền thuê đất. Người Bồ Đào Nha tiếp tục trả tiền thuê hàng năm cho đến năm 1863 để được quyền ở tại Ma Cao. Mọi giao thương với Đại Việt của người Bồ Đào Nha, kể cả việc truyền giáo của các tu sĩ, đều xuất phát từ Macao. Cho nên không lạ gì khi họ gọi nước Đại Việt ta theo tên gọi khác mà Trung Hoa sử dụng. Mà các triều đại Trung Hoa thì không bao giờ thừa nhận tên nước Đại Cồ Viêt (thời Đinh Tiên Hoàng), nước Đại Viêt (thời Lý, Trần, Lê) hay Đại Ngu (thời nhà Hồ). Họ luôn gọi nước Việt ta là An Nam-安南-, xuất xứ từ một tên gọi được nhà Đường thời Bắc thuộc đặt ra, là An Nam Đô Hộ Phủ-安南都護府.[3]
Các giáo sĩ dòng Tên (tức là Dòng [theo Tên] Chúa Giêsu; tiếng La Tinh: Societas Iesu, tiếng Pháp: Jésuit) người phương Tây từ Macao sang Đại Việt truyền giáo vào thế kỷ 17 trở đi đều gọi tên nước Đại Việt ta là An Nam là theo cách gọi của các triều đại Trung Hoa. Tên gọi An Nam (viết là Anamita) đều được ghi ngay bìa của các quyển từ điển họ soạn. Gaspar d’Amaral đã soạn thảo cuốn tự điển: Diccionário anamita-português-latim. A. Barbosa soạn Tự điển Bồ-Việt: Diccionário português-anamita. Quyển từ điển của A. Barbosa và tự điển trên đây của d’Amaral có lẽ đã được viết vào khoảng 1635-1640. Sau đó dựa trên hai từ điển này Alexandro De Rhodes soạn tự điển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (ta quen gọi là từ điển Việt-Bồ-La) xuất bản năm 1651 tại Rome (Italy).[[4]
Rõ ràng là từ lúc này trở đi, nước Đại Việt ta được người phương Tây gọi thống nhất là An Nam, chung cho cả Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Các giáo sĩ dòng Tên đến nước Việt lần đầu tiên năm 1615 tại Hội An-Đàng Trong; và năm 1627, lần đầu tiên đến Cửa Bạng, Thanh Hoá-Đàng Ngoài. Vì vậy, những người Châu Âu lúc đó cũng đã phân biệt Đàng Trong và Đàng Ngoài. Lúc bấy giờ họ gọi Đàng Trong là Cochinchina và Đàng Ngoài là Tunquins, như ghi chép trong quyển sách “An Account of the Empire of China-Bút ký về Đế quốc Trung Hoa”[[5] của tác giả người Tây Ban Nha Dominick Fernandez Navarrete (1616-1686): “Vương quốc Cochinchina nằm giữa Tunquins [tức Tonkin-Đông Kinh] và Champa. Đất nước tốt đẹp và nhiều tơ lụa và họ mang sang buôn bán với Manila…”. Tunquins hay Tonkin xuất xứ từ tên gọi kinh thành Đông Kinh thời Lê (tức Đại La, Thăng Long thời trước nhà Lê).
Vậy là từ đầu thế kỷ 17, nước ta được người phương Tây gọi chung là An Nam, và tên Cauchy China hay Cochinchina trước đấy hơn một thế kỷ gọi cả nước Việt ta thì bây giờ dành riêng gọi cho Đàng Trong, và một tên mới Tunquin (tức Tonkin) là dành cho Đàng Ngoài.
Cho đến trước khi sự phân chia Đàng Trong và Đàng Ngoài chấm dứt, Gia Long lên ngôi thì tên An Nam vẫn được người nước ngoài dùng để gọi nước Việt, kể cả thời Tây Sơn.
Gia Long lên ngôi 1802, liền cho sứ thần sang Trung Hoa để xin sắc phong. Đại Nam thực lục chép rằng: “Vua [Gia Long] hạ lệnh cho bọn Quang Định đem quốc thư và phẩm vật (…) đi xin phong và xin đổi quốc hiệu làm Nam Việt…”. Vua Thanh trước cho rằng chữ Nam Việt giống [dễ lẫn] chữ Đông Tây Việt [của Trung Hoa-TGN] nên không muốn cho. Vua [Gia Long] hai ba lần phục thư để biện giải, lại nói nếu vua Thanh không cho thì không chịu [thụ] phong. Vua Thanh sợ mất lòng nước ta, mới dùng chữ Việt Nam để đặt tên nước, gửi thư lại nói, rằng khi trước mới có Việt Thường đã xưng Nam Việt, nay lại được toàn cõi An Nam, theo tên mà xét thực thì nên tóm cả đất đai mở mang trước sau, đặt cho tên tốt, định lấy chữ Việt mào ở trên để tỏ rằng nước ta nhân đất cũ mà nối được tiếng thơm đời trước, lấy chữ Nam đặt ở dưới để tỏ rằng nước ta mở cõi Nam giao mà chịu mệnh mới, tên xưng chính đại, chữ nghĩa tốt lành, mà đối với tên gọi cũ của Lưỡng Việt ở nội địa [tức Đông Việt, Tây Việt của Trung Quốc] lại phân biệt hẳn. Đến đây vua Thanh sai Bố Sâm đem cáo sắc và quốc ấn đến phong, lại cho gấm đoạn và đồ khí mãnh (…).
(…) Tháng 2, ngày Mậu thìn, [vua Gia Long] xa giá đến Kinh sư [Phú Xuân]. Ngày Quý dậu vua yết Thái miếu. Đặt quốc hiệu là Việt Nam… Xuống chiếu bố cáo trong ngoài. Chiếu rằng: “…lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ bố cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”.[[6]
Như vậy là từ ngày 17/2/Mậu thìn (1804) nước ta chính thức là Việt Nam, bãi bỏ tên An Nam.
Thực ra, tên nước Việt Nam không hề được nhà Nguyễn sử dụng sau đó. Gia Long mới lên ngôi, có lẽ vì muốn giữ hòa khí với Trung Hoa mà miễn cưỡng tạm chấp thuận quốc danh Việt Nam do nhà Thanh ban cho. Sự suy đoán này là có cơ sở, bởi đến năm 1812, nhà Nguyễn không thông báo cho nhà Thanh mà tự mình sửa lại thành Đại Việt.[[7] Đến đời vua Minh Mạng năm thứ 12, Mậu Tuất (1838), lại đặt tên nước là Đại Nam và quyết định áp dụng từ năm sau đó.[[8] Với việc vua Minh Mạng lấy quốc danh mới, từ lúc đó cho đến khi Pháp chiếm được cả nước, tất cả các sách được biên soạn của Quốc sử quán triều Nguyễn đều ghi hai chữ Đại Nam, như Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam hội điển sự lệ, v.v… Tại khoản 1 hòa ước Patenôtre 1884 cũng viết: “Nước Đại Nam tự nhận nước Đại Pháp bảo hộ.”[[9]
Và ngay sau đó thì cả tên và nước Đại Nam cũng không còn tồn tại. Người Pháp đã xóa bỏ nước Đại Nam thống nhất, chia ra làm ba phần, đặt tên theo các tên có sẵn của toàn bộ hoặc một phần của giải đất hình chữ S đã có trước đó là Tonkin (Bắc Kỳ), Annam (Trung Kỳ), Cochinchine (Nam Kỳ), ba phần này cùng với Lào và Cambodge lập thành Indochine-Đông Dương thuộc Pháp.
Phải mất gần hơn 70 năm nữa, một tên nước mới mà cũ đã xuất hiện. Đó là tên nước Việt Nam, (do nhà Thanh ban cho Gia Long năm 1804 và bị nhà Nguyễn năm 1812 hủy bỏ sau 8 năm miễn cưỡng chấp nhận), lần đầu tiên được chính thức công bố bởi Chính phủ Bảo Đại-Trần Trọng Kim vào ngày 10/4/1945, với tên gọi Đế Quốc Việt Nam. Sau 5 tháng tồn tại, ngày 19/8/1945 Chính phủ Trần Trọng Kim bị lật đổ và ngày 2/9/1945 Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời do Chủ Tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, với Tuyên Ngôn Độc Lập tuyên cáo chính thức cùng thế giới. Văn bản ngoại giao quốc tế đầu tiên với danh xưng Việt Nam có lẽ là hiệp định Sơ Bộ ký ngày 6/3/1946 giữa Đại diện chính phủ Pháp J.R. Sainteny với đại diện phía Việt Nam là Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh, có sự chứng kiến của đại diện Anh, Mỹ, Trung Hoa. Hiệp định này sau đó được chính phủ Pháp tại Paris thông qua.
Vậy là sau hơn hai ngàn năm lận đận, quốc gia của người Việt từ đây mới có được một tên gọi thống nhất, được trong nước và quốc tế chính thức công nhận và sử dụng cho đến ngày nay và chắc là cả trong tương lai. Đó là VIỆT NAM![[10]]
Vài lời về nguồn gốc tấm bản đồ
Gần hai mươi năm trước, một người bạn lâu năm là Công chúa Iren of Greece, em gái hoàng hậu Sophia của nước Tây Ban Nha có mời tôi đến Tây Ban Nha. Công chúa sống cùng Hoàng tộc tại Hoàng cung hiện tại của Tây Ban Nha ở Madrid, nhưng hoàng gia còn có một cung điện khác lâu đời, nguy nga hơn, là cung điện El Escorial (ảnh A) nằm cách Madrid 45 km về phía đông bắc, được xây dựng từ năm 1563 dưới triều vua Felipe II, (Tiếng Anh gọi là Philip II, biệt danh “The Pruden-Người khôn ngoan”). Felipe II là Hoàng đế của Tây Ban Nha, vua của Bồ Đào Nha, vua của Naples, vua của Sicily, và vua trên danh nghĩa ủy quyền của Anh và Ái Nhĩ Lan. Nhà vua cũng đồng thời là Công tước Milan và là lãnh chúa của 17 vùng đất Hà Lan. Tên của vua được đặt cho thuộc địa Philippines. Công chúa Iren (ảnh B) là chủ tịch của tổ chức nhân đạo “World In Harmony-Thế giới hài hòa”, một tổ chức đã giúp đỡ cho nhiều người nghèo trên thế giới. Với Việt Nam công chúa đã trợ giúp nhiều triệu đô la cho phụ nữ và trẻ em nghèo.
Công chúa Iren of Greece, thuộc Hoàng tộc Tây Ban Nha
Lần này công chúa đã dẫn tôi đi thăm cung điện El Escorial. Là khách của Hoàng gia nên được ưu đãi đến mọi khu vực của cung điện. Tại phòng riêng của vua Felipe II, tôi chợt thấy trên tường treo một bản đồ hàng hải nhỏ, nhìn kỹ là có một phần vẽ về vùng Biển Đông của nước ta. Dù là người của Hoàng Gia nhưng cũng không được phép chụp ảnh, tôi tiếc lắm. Ít lâu sau, ĐSQ Tây Ban Nha ở Hà Nội có gửi cho tôi một bưu kiện ngoại giao, với bản copy tấm bản đồ đó kèm theo bức thư (ảnh C) cho biết theo thỉnh cầu của công chúa Iren, vua Joan Carlos đã lệnh cho làm một copy mầu nguyên bản để gửi cho tôi (xem bản đồ ở trên). Là quà của Hoàng gia gửi cho nên tôi giữ riêng không công bố. Gần đây, được biết tấm bản đồ này đã một lần được vẽ lại (redrawn) vào năm 1619 nằm trong bộ sưu tập của học giả, luật gia người Anh là John Selden, hiện lưu trữ tại thư viện Bodleian, Đại Học Oxford nước Anh, đã được phục chế lại và mới công bố gần đây. Vì vậy, bây giờ tôi nghĩ cũng là lúc nên giới thiệu bản đồ cổ này và đặc biệt là kho lưu trữ lớn tại cung điện El Escorial, có nhiều tài liệu quý về nước ta để những người quan tâm tham khảo.
Chú thích:
[1] Discourses of the Province of Caugigu. Dịch theo bản tiếng Anh: Polo, Marco. The Travels of Marco Polo. Translated by Henry Yule. Edited and Annotated by Henri Cordier. John Murray, London, 1920, Book 2, Chapter 56.
[2] Dịch theo bản tiếng Anh “The Suma Oriental of Tome Pires…” NXB The Hakluyt Society, London 1944.
[3] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết: Nhâm Ngọ, [622], (Đường Vũ Đức năm thứ 5). Nhà Đường đổi Giao Châu làm An Nam đô hộ phủ. Từ đó về sau, các triều đại Trung Hoa đều gọi nước Việt ta là An Nam. Ngay cả khi nhà Minh đã đánh chiếm nước ta, đặt làm quận Giao Chỉ, vẫn dùng tên An Nam, như trong mật lệnh của Hoàng đế Vĩnh Lạc đã viết: 但是 安 南 所 立 者 悉 壞之 一 字 不 存- còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh một chữ chớ để còn (Theo Lý Văn Phượng 李文 鳳, Việt kiệu thư 越 嶠 書 (1540) Q. 2; tờ 31a ).
Đời nhà Thanh: Mậu Thân (1788) Càn Long năm thứ 53. Tháng 11. Nhà Thanh sách phong nhà vua làm An Nam quốc vương. Trước kia, Sĩ Nghị xuất quân, vua Thanh giao cho sách văn và ấn chương, rồi dụ bảo Nghị khi đã khôi phục được kinh đô thì phong ngay cho Lê Tự Tôn (tức Lê Chiêu Thống) làm An Nam quốc vương để ràng buộc lấy lòng người. (theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục-Chính Biên-Quyển XLVII tr.987).
[[4] ] xem: Augustin de Backer, Bibliothèque des Ecrivains de la Compagnie de Jésus, quyển I, Paris 1869, tr.121-Carlos Sommervoguel, Bibliothèque de la Compagnie de Jésus, Nouvelle édition, Louvain 1960 cột số 261-262-D.Barbosa Machado, Bibliotheca Lusitana, quyển II, Lisbõa, 1747, tr.331-332-E.Teixeira, Macou e sua diocese VII, Padres da diocese de Macau, 1967 tr.548. D.Barbosa Machado, Bibliotheca Lusitana, quyển I, Lisbõa, 1741 tr.214-215.
[[5]] Nguyên văn tiếng Anh: “The Kingdom of Cochinchina lies between Tunqins and Champa; the Country is good, and abounds in Silks they trade from thence to Manila…” Xem “An Account of the Empire of China” Chapter XXXI p.345 ,bản tiếng Anh, in trong “A Collection of Voyages and Travels, Some Now First Printed from Original Manuscripts”, Vol.1, printed for Awnsham and John Churchill. London 1704
[[6]] Đại Nam Thực Lục Đệ nhất kỷ-Quyển XIX-Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế, Gia Long năm thứ nhất, Nhâm Tuất 1802. Bản dịch của Viện Sử học.
[[7]] Theo bản dịch “Quốc sử di biên 國史遺編-”, của Viện Sử Học, NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội 2009, tr. 132.
[[8]] Đại Nam thực lục, II, quyển 190, tr. 1a~2a; Đại Nam thực lục, II, quyển 200, tr.. 8a~b; Quốc sử di biên, NXB VHTT HN 2009, tr. 337.
[[9]] Xem “Dương Sự Thủy Mạt” bản dịch của Đông Hào, Trương Sĩ Hùng, Hàn Khánh, NXB Thế Gới 2016, tr. 167
[[10]] Cần phải lưu ý rằng tên gọi Việt Nam trước khi được chính phủ Bảo Đại-Trần Trọng Kim chính thức đặt tên cho quốc gia, thì cũng đã được nhiều tổ chức bí mật sử dụng. Sớm nhất có thể kể đến Việt Nam quang phục hội do Phan Bội Châu thành lập 1912, Việt Nam Quốc Dân Đảng 1927 của Nguyễn Thái Học, Việt Nam Toàn quốc Cách Mạng Đảng 1927 của Nguyễn Hải Thần, Đảng Cộng Sản Việt Nam 1930 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh (Việt Minh) 1941 do Hồ Chí Minh sáng lập. Sau năm 1945 tình hình chiến tranh trên cõi Việt Nam đã tạo nên những thể chế chính quyền quốc gia khác như chính quyền của Bảo Đại có tên gọi “Quốc Gia Việt Nam”(1948-1955) hay “Việt Nam Cộng Hòa” từ vĩ tuyến 17 trở vào (1955-1975), đều lấy tên nước là Việt Nam.
Bài viết và hình ảnh lấy trên trang mạng Nghiên Cứu Quốc Tế
ĐN, lúc 19h03 ngày 04 tháng 10 năm 2018
Bốn niệm xứ